26 tháng 5 2024

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG VÀ LÂM THỊ MỸ DẠ: Mối tình bình dị mà sắt son

 

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng gọi nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là hoàng hậu của ông, một hoàng hậu đầy tình yêu thương và lòng tận tụy.

Phải lòng sau một chuyến xe đi nhờ

Chuyện tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Lâm Thị Mỹ Dạ bắt đầu lãng mạn như chính những câu văn và lời thơ họ viết. Đó là vào một ngày đầu năm 1973, khi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đi nhờ xe đạo diễn Hoàng Tích Chỉ ra thăm miền Bắc. Đến Đồng Hới, họ ghé thăm Hội Văn nghệ Quảng Bình, nơi nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đang sinh hoạt. Vừa gặp gỡ, nhà văn 36 tuổi đã bị chinh phục bởi vẻ xinh đẹp, dịu dàng của tác giả “Khoảng trời, Hố bom”. Hoàng Phủ Ngọc Tường thú nhận: “Mình bị sốc vì Dạ quá hiền dịu và rất dễ thương”. Và cũng bởi vậy, họ bắt đầu thư từ qua lại.

Đôi vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Lâm Thị Mỹ Dạ thời trẻ (Ảnh: tư liệu gia đình)

Sau 6 tháng, được sự vun vén của những người bạn cùng làng văn, cặp đôi quyết định về chung một nhà. Ngày 27/10/1973, bạn bè văn chương đã đến chật khu nhà số 51 Trần Hưng Đạo để mừng lễ tân hôn của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Lâm Thị Mỹ Dạ, đánh dấu sự gắn kết của một cặp đôi sở hữu tài năng văn chương xuất chúng.

Có lúc “hục hặc” vì thiếu tiền, rồi lại lẳng lặng ứng lương cho chồng lo nghiệp văn chương

Thời bao cấp, cán bộ đã khổ, vợ chồng nghệ sĩ như Tường – Dạ càng khổ hơn. Tường là người đàn ông “ham chơi”. Lương bổng hai người chưa đến 120 đồng, không đủ nuôi hai đứa con, mẹ già chồng, thế mà hễ bạn bè đến nhà là Tường gọi: “Dạ ơi, cho anh mấy chai bia”.

Nhưng không chơi, không đàm đạo văn chương thì không thể viết được. Dạ hiểu điều đó. Tường đi lang thang suốt Cà Mau, Quảng Nam, Quảng Trị, Sài Gòn… Dạ đều âm thầm chuẩn bị lộ phí cho chồng. Những tháng ngày ấy, bạn bè đến nhà không hề biết hai vợ chồng đã có lúc “hục hặc” vì thiếu tiền.

Gia đình nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường – nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ và hai con Hoàng Dạ Thư, Hoàng Dạ Thi những năm đất nước bắt đầu mở cửa, đổi mới. Ảnh: Tư liệu gia đình.

Gia đình nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mấy đời ở Huế, Mỹ Dạ thì gốc gác nhà quê Quảng Bình, nên không ít lần mẹ chồng nàng dâu không hiểu nhau… Nhưng nhờ bản tính dịu dàng, dần dần Dạ đã được mọi người nhà chồng yêu mến. Năm 1979, chiến tranh biên giới ác liệt. Tường sốt ruột nói với vợ: “Anh phải lên biên giới thôi, đất nước nguy nan…! Em còn tiền không?”.

Thời đó, gia đình nào cũng sống bằng đồng lương, tem phiếu, làm gì có tiền dự trữ. Mỹ Dạ lẳng lặng đi bán mấy tấm vải, ứng tháng lương để có tiền cho chồng đi biên giới. Chuyến đi ấy, Hoàng Phủ đã viết được bút ký nổi tiếng “Rừng Hồi”. Chuyến đi nào về Tường viết được cái gì hay, Dạ đều rất phấn chấn. Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984) là hai tập bút ký xuất sắc khẳng định vị trí của Hoàng Phủ trên văn đàn.

“Mỹ Dạ không chỉ là vợ mà là ân nhân”

Ngày 14/6/1998, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong chuyến đi dạy “cua” ở Đà Nẵng, bị tai biến mạch máu não hôn mê hai tháng trời. Nghe tin chồng bị nạn, Mỹ Dạ đã hủy chuyến đi Mỹ, tức tốc bay về Đà Nẵng… Suốt 8 năm, Mỹ Dạ luôn luôn ở bên chồng, vừa là người vợ tần tảo, vừa là người mẹ bao dung, săn sóc, đút mớm cơm cháo, thuốc men, xoa bóp, tắm rửa, vệ sinh cho chồng.

Hoàng Phủ Ngọc Tường có lần ngọng nghịu ứa nước mắt: “Mỹ Dạ không chỉ là vợ mà là ân nhân của mình!”. Ngọc Tường bị liệt nửa người, nằm một chỗ, muốn ngồi dậy Mỹ Dạ phải đỡ lên xuống xe lăn. Mỹ Dạ đi đâu xa một vài ngày là Hoàng Phủ Ngọc Tường không ổn! Tuổi cao, Mỹ Dạ bị nhiều thứ bệnh hành hạ.

Bệnh khớp tay làm Mỹ Dạ không đi xe máy được. Có lần đưa chồng vào nhà vệ sinh, Mỹ Dạ bị ngã vì tay đau không đỡ nổi chồng. Trăm nghìn thứ việc chưa từng có ập xuống đời người phụ nữ làm thơ xinh đẹp ấy. Thế mà bà vẫn hàng ngày dịu dàng bên chồng. Chồng ngủ rồi bà lại thức làm thơ! Có lần quá mệt mỏi, Mỹ Dạ đã làm bài thơ “Lá cờ trắng”, như một tuyên ngôn “đầu hàng thơ”! Nhưng rồi thơ vẫn đến với bà… Khát khao cháy bỏng của Lâm Thị Mỹ Dạ là làm sao chữa cho chồng đi lại được! Bởi thế mà nghe ai nói có thuốc gì hay, thầy nào giỏi, dù xa xôi, tốn kém đến mấy Mỹ Dạ cũng tìm bằng được.

Tuy ốm đau không đi lại được, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn có trí óc minh mẫn, ông làm thơ, viết văn, đều đặn gửi các tờ báo. Trong một tác phẩm, ông gọi bà là hoàng hậu của một nhà vua không ngai, với những lời lẽ chân tình, cảm động.

Sau thời gian dài chăm chồng, sức khoẻ nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ suy giảm. Ngày 5/7, bà từ biệt cuộc đời tại nhà riêng ở TP. HCM, sau 5 năm bệnh Alzheimer trở nặng, hưởng thọ 75 tuổi. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đi theo người vợ của mình vào ngày 24/7, sau đó vỏn vẹn chỉ 18 ngày. Trước đó, con gái Dạ Thư cho biết, ông đã bị đột quỵ lần 2, sức khỏe rơi vào tình trạng cạn kiệt.

 Lan Anh Sưu Tầm

Pin bền nhất thế giới vẫn hoạt động sau 180 năm

ANH:Một bộ pin ở Đại học Oxford khiến hai chiếc chuông reo liên tục suốt 180 năm nhưng không ai biết chính xác tại sao nó hoạt động lâu như vậy.

Chuông điện Oxford ở phòng thí nghiệm Clarendon. Ảnh: Wikimedia

Vào giữa thế kỷ 19, Robert Walker, giáo sư vật lý ở Đại học Oxford, mua được một thiết bị thú vị. Đó là bộ pin được thiết kế để đẩy quả cầu kim loại dao động nhanh giữa hai khối chuông nhỏ. Cho đến nay, thiết bị mang tên Chuông điện Oxford vẫn phát ra tiếng kêu sau 180 năm từ khi sản xuất. Các nhà khoa học cho biết chiếc chuông đã kêu hơn 10 tỷ lần, theo Smithsonian Magazine.

Chế tạo bởi Watkins và Hill, một công ty sản xuất thiết bị ở London, Anh, chiếc chuông được gửi đến Walker kèm theo tờ ghi chú "Sản xuất năm 1840". Hiện nay, chiếc chuông được trưng bày tại Phòng thí nghiệm Clarendon thuộc Đại học Oxford. Các nhà nghiên cứu chưa biết chính xác cơ chế nào giúp thiết bị được sách Kỷ lục Guinness công nhận là "bộ pin bền nhất thế giới" hoạt động lâu như vậy. Việc tháo rời thiết bị để nghiên cứu có thể phá hỏng nó.

Thiết bị sử dụng pin khô, một trong những loại pin điện đầu tiên do linh mục kiêm nhà vật lý Giuseppe Zamboni phát triển vào đầu thế kỷ 19. Pin khô bao gồm các đĩa tròn bằng bạc, kẽm, lưu huỳnh hoặc vật liệu khác xếp xen kẽ nhau để sản sinh dòng điện cường độ thấp.

"Chúng tôi chưa biết chắc chắn cấu tạo bên trong bộ pin, nhưng lớp phủ bên ngoài là lưu huỳnh", AJ Croft, nhà nghiên cứu từng làm việc tại Phòng thí nghiệm Clarendon, cho biết trong một bài báo đăng năm 1984 trên tạp chí Vật lý học châu Âu. "Zamboni từng chế tạo những khối pin tương tự, gồm khoảng 2.000 lá thiếc mỏng dính vào giấy phủ hợp chất kẽm lưu huỳnh ở một mặt và mangan dioxide ở mặt còn lại".

Chiếc chuông không kêu inh ỏi như đồng hồ báo thức mà chỉ phát ra âm thanh rất nhỏ bởi dòng điện chạy qua có điện thế rất thấp. Để khám phá bí ẩn của Oxford Electric Bell, các nhà nghiên cứu chắc chắn phải đợi cho tới khi bộ pin cạn điện hoặc thiết bị tự hỏng theo thời gian.

An Khang (Theo IFL Science/Smithsonian Magazine)



NGHĨ VỀ NGHỆ THUẬT GẶM XƯƠNG..

Xí quách là gì? Hà, hà.

Đơn giản xí quách là trư cốt, là xương heo đọc theo âm Quảng Đông.

Hồi đầu mới du nhập Việt Nam, xí quách chỉ là xương heo, nhưng sau xương bò, xương gà, xương gì gì nữa cũng được kêu tuốt là xí quách.

Xương heo để nấu nước lèo hủ tiếu (phở thì dùng xương bò).

Chiều chiều, các bợm nhậu thường ghé quán hủ tiếu gọi một tô xí quách lai rai. Chừng mà chủ quán kêu hết xí quách rồi thì coi như đời tàn, chẳng còn gì vui hết, lại phải về sớm với bà vợ lắm điều. Mà nhiều khi còn bị vợ hỏi xóc hông “Ông chơi với bạn bè ra sao mà người ta không cho vô bàn nhậu, phải về sớm vậy nè, hả?”.

Xương còn cứng thì dáng người thẳng thóm, tướng đi hùng dũng.

Xương loãng rồi tướng đi lòm ròm, đầu gối lủng củng còn gì là uy phong.

Ngoài ra, xương sống mà nhất là tủy sống là nơi sinh sản ra cội nguồn sự sống. Lớn tuổi rồi, bộ máy sinh học đã mệt mỏi theo năm tháng, phần cần dùng lúc nào cũng nhiều hơn năng lực sản xuất. Không biết cách điều tiết thì nhiều khi phải ăn vào vốn, là nguy cơ đi gặp ông bà sớm. Vậy là hết xí quách rồi.

Có món ngon rồi, lại phải biết cách ăn mới thú. Tui có sưu tầm được cái kêu là “triết lý gặm xương” xin chép lại đây chia xẻ với mọi người:

Cái thú thứ nhất về khẩu vị trong việc gặm xương là hưởng được những bất ngờ. Dĩ nhiên cục xương phải là loại xương có thịt như giò heo, đuôi bò, hoặc xí quách.

Xương như xương nấu nước lèo phở thì chẳng còn gì để gặm; xương ở nhà hầm thì được vì còn dính nhiều thứ. Xương nước lèo phở phải là loại xương trắng, đã bị cạo bỏ tất cả những gì bám bên ngoài, và thụt bỏ tuỷ bên trong.

Nước lèo của tiệm phở trong veo như nước mưa, mùi thơm nức.

Để chuẩn bị nấu nước lèo, thấy họ nạo xương ống sạch trơn bên ngoài, rồi cưa ra thọc bỏ tuỷ bên trong; nếu còn dính tí gì thì nước đục, không thơm. Xương như vậy thì chẳng còn gì để gặm.

Xương còn dính thịt cho ta cái bất ngờ là lúc đang gặm tí thịt còn lắt léo trong góc kẹt của cục xương thì bỗng sựt một cái, ta cắn được một miếng gân hoặc một miếng sụn dòn.

Đang gặm tí da tí mỡ của giò heo thì lại đớp được một mẩu thịt nạc. Khoái hơn nữa là gặm cái sụn giòn tan nằm cuối xương ống chân gà, nhất là loại gà công nghiệp. Những khi ăn đám ăn tiệc, ta buộc lòng phải bỏ mấy cái xương gà loại này vì muốn bảo toàn danh dự, tuy lòng tiếc hùi hụi.

Hưởng được những bất ngờ đó khoan khoái như “tha hương ngộ cố tri” hoặc “nắng hạn gặp mưa rào.” Lòng ta phơi phới.

Ta nhai nhai một tí, rồi tợp một tợp hoặc tu một tu.
Cái thú thứ hai là hưởng được nhiều thứ cùng một lúc. Tuỳ là bò, gà, hay heo, những thứ bám vào xương có thể kể ra nhiều: thịt nạc, thịt mỡ, gầu, nạm, da, sụn, gân, tuỷ. Cục xương to nhất không hơn nắm tay như giò heo hoặc đuôi bò, dài khẳng khiu không hơn cây bút chì như xương chân gà, lại cho ta nhiều thứ để thưởng thức như vậy.

Ăn thịt heo luộc thì chỉ có nạc và mỡ, ăn bít tết thì chỉ có thịt, ăn nem thì có thịt có da; không thức ăn nào cho ta hưởng được nhiều thứ như gặm xương.

Có lẽ vì sảng khoái như vậy nên dân nhậu thường lấy xương làm mồi. Rỉa một miếng xí quách, chấm vào xì dầu (nước tương) có pha tương ớt, cho vào miệng nhai, rồi ngẫm nghĩ, “Đời cũng còn nhiều thú vui đơn sơ mà đáng sống.”

Mà đúng thật, ăn xí quách cũng như sống cuộc đời, đủ mùi vị khi ngọt bùi, khi cay đắng, khi đầy toan tính, khi thực bất ngờ. Ấy là chưa kể nhấm thêm vài lá húng quế hoặc ngò mùi, ngò gai, cắn một tí ớt. Cộng hưởng với men nồng của rượu, thực không có gì tiêu biểu cho cuộc đời lên voi xuống chó cho bằng gặm xương.

Gặm xương còn là một liều thuốc bổ, Calcium. Không hiểu sao nhiều người phải mua calcium về uống, trong khi xương là nguồn calcium vô tận. Thử hỏi uống một viên Calcium, vừa nhạt nhẽo vừa nóng, sao cho bằng gặm một cục xương, vừa béo vừa bùi?

Thế mới biết, người Mỹ người Tây cần uống Calcium vì họ không biết gặm xương!

Ngoài việc được khoái khẩu ra, cái thú gặm xương còn đem lại cho ta nhiều lợi ích tinh thần. Trước hết, gặm xương tập cho ta biết lập kế hoạch. Gắp cục xương bỏ vào tô, vào chén, hoặc vào đĩa xong, ta phải ngắm nghía để lập phương án. Ta nên bắt đầu từ chỗ nào? Phải gặm ngay từ bàn chân heo hay phải bắt đầu từ chỗ bên trên có nhiều thịt? Gặm ở đâu thì còn tuỳ người. Có người thích cái dễ dàng trước khi đến chỗ khó, nghĩa là gặm chỗ thịt nhiều trước khi đến chỗ gân. Gặm thế này là gặm xuôi. Người khác lại thích gặm ngược, nghĩa là bắt đầu từ chỗ móng, tuy khó khăn nhưng được cái miếng ngon thích thú, cái sần sật của bàn chân heo.

Gặm xương tập cho ta đức kiên nhẫn.

Đúng thế ! Ai không kiên nhẫn sẽ gặm ngay vào chính cục xương, không gãy răng cũng dập môi. Từ từ mà gặm, nhìn lui nhìn tới tính toán cho kỹ rồi ghé răng vào cắn một cái. Không chắc là cắn ra được ngay đâu. Có thể lại phải cắn lui cắn tới, nhùng nhà nhùng nhằng.

Gặm xương là một việc mạo hiểm. Khi gặm xương, ta không biết điều gì đang chờ ta. Thịt chăng? Mỡ chăng? Gân chăng? Sụn chăng? Hay lại chính là cục xương làm mẻ răng ta? Ta chẳng khác gì người đang mò mẫm trong một hang động hoang vắng có cái khoái cảm của người mạo hiểm “ngậm ngải tìm trầm.”

Gặm xương còn dạy cho ta biết tuỳ thời, nghĩa là biết khi nào gặm, khi nào bỏ. Đến lúc gặm mà không gặm thì mất miếng béo bở; đến lúc bỏ mà không bỏ thì càng ráng càng gặp sức cản trở, không khéo thì gãy răng như chơi!

Chẳng ai còn lạ gì câu, “Thuận thiên dã tồn; nghịch thiên dã vong”.

Thế nhưng cái sự “thuận thiên” này cũng truân chuyên lắm. “Thuận thiên” mà không khéo thì bị phê là “nịnh bợ” hoặc là “ăng-ten”.

Tuỳ thời trong việc gặm xương cũng na ná như lập phương án, biết bắt biết buông, chẳng khác gì người biết chơi đàn thập lục.

Một cái lợi nữa của việc gặm xương là tập luyện miệng răng lưỡi. Ba cơ quan này phải phối hợp chặt chẽ để đạt hiệu quả cao nhất. Khi đã luyện được mười thành công lực, ta có thể đem công phu này áp dụng nhiều nơi.

Nhưng quan trọng nhất là ta có thể tuyên bố xí quách ta vẫn còn ngon.

GS TRẦN VĂN KHÊ
Sưu tầm.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét