20 tháng 10 2024

Cầu Goat Canyon Trestle do kỹ sư đường sắt John D. Spreckels thiết kế.

 



Cầu Goat Canyon Trestle ở San Diego, California là cây cầu đường sắt bằng gỗ dài nhất thế giới, với chiều dài 185 mét và cao gần 57 mét. Được xây dựng từ các thanh gỗ sequoia, cây cầu này là một phần của tuyến đường Carrizo Gorge, nơi từng được gọi là "đường sắt không thể" vào năm 1919 vì những khó khăn kỹ thuật và hậu cần khi thi công.


Cầu Goat Canyon Trestle do kỹ sư đường sắt John D. Spreckels thiết kế, người có công lớn trong việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông tại California vào đầu thế kỷ 20. Quá trình xây dựng do Công ty Đường sắt San Diego và Arizona Eastern thực hiện, với mục đích kết nối San Diego với vùng nội địa và Mexico. Việc thi công bắt đầu vào năm 1932 và hoàn thành vào năm 1933, nhưng không hề dễ dàng.

Khu vực Carrizo Gorge có địa hình hiểm trở với các vách đá dựng đứng và dòng suối xiết khiến việc vận chuyển vật liệu và thi công gặp nhiều khó khăn. Thời tiết khắc nghiệt, với nắng nóng ban ngày và lạnh giá ban đêm, làm công việc trở nên nguy hiểm. Các công nhân phải sử dụng thiết bị thô sơ và làm việc trong điều kiện nguy hiểm khi lắp ráp những thanh gỗ sequoia nặng nề trên độ cao, khiến thời gian thi công kéo dài hơn dự kiến.

Cây cầu này còn gắn liền với nhiều giai thoại về sự kiên cường của những người thợ. Họ đã làm việc trong điều kiện đầy thử thách, vượt qua sự hoài nghi của những người xung quanh, với quyết tâm hoàn thành tuyến đường sắt. Dù phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, họ đã góp phần hoàn thiện cây cầu – một biểu tượng cho sự sáng tạo và bền bỉ của con người.

Cầu Goat Canyon Trestle ngày nay vẫn thu hút khách du lịch và những người yêu thích lịch sử. Nó là một di sản quý giá của kỹ thuật thế kỷ 20, minh chứng cho khả năng con người vượt qua thách thức để xây dựng những công trình vĩ đại.



Năm 1913, cầu Tower Bridge ở London là biểu tượng nổi bật của thành phố, thể hiện khả năng kiến trúc và kỹ thuật xuất sắc. Hoàn thành vào năm 1894 sau tám năm thi công, cầu nhanh chóng trở thành một trong những địa danh dễ nhận diện nhất của London, bắc qua sông Thames và nối liền các quận Tower Hamlets và Southwark. Đến thời điểm bức ảnh được chụp, cầu đã phục vụ thành phố gần hai thập kỷ, đóng vai trò quan trọng trong mạng lưới giao thông, tạo điều kiện cho việc di chuyển của cả người đi bộ và phương tiện.

Tower Bridge được xây dựng để đáp ứng nhu cầu giao thông ngày càng tăng của London thời kỳ Victoria. Khi Đông London phát triển nhanh chóng, các cây cầu hiện có như London Bridge không còn đủ sức chứa cho lưu lượng giao thông. Một ủy ban được thành lập vào cuối thế kỷ 19 để tìm giải pháp, và thiết kế cầu Tower Bridge ra đời. Thách thức là tạo ra một cây cầu cho phép tàu thuyền đi qua, vì sông Thames vẫn là một tuyến đường thủy thương mại quan trọng, đồng thời cũng phục vụ giao thông đường bộ. Giải pháp là cầu bascule—một dạng cầu nâng có thể mở để tàu qua lại mà vẫn duy trì lưu thông cho phương tiện.

Thiết kế của Tower Bridge không chỉ độc đáo về mặt kỹ thuật mà còn ở hình dáng bên ngoài. Kiến trúc sư Sir Horace Jones và kỹ sư Sir John Wolfe Barry đã hợp tác để tạo ra một công trình kết hợp giữa chức năng và phong cách Gothic Revival. Hai tháp ở hai bên cầu được ốp đá, hòa quyện với kiến trúc lịch sử của Tower of London. Các tháp này chứa máy móc nâng các phần cầu, ban đầu được cung cấp năng lượng bằng hơi nước, cho phép mở cầu nhanh chóng để tàu thuyền đi qua.

Vào năm 1913, London đang ở thời điểm chuyển mình mạnh mẽ, với cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất chỉ một năm sau đó. Cầu Tower Bridge là một phần thiết yếu trong hoạt động giao thương của thành phố, kết nối các khu vực nhộn nhịp và là nơi qua lại của xe ngựa, ô tô đầu tiên và người đi bộ. Cầu có chiều dài 800 feet và hai tháp cao 213 feet, là một công trình nổi bật trong bầu trời London.

Cầu Tower Bridge cũng là biểu tượng cho kỹ thuật Anh. Cơ chế bascule lúc bấy giờ là một thành tựu kỹ thuật ấn tượng. Hệ thống hơi nước ban đầu được lắp đặt bên trong các tháp cầu là một cấu trúc phức tạp của máy bơm thủy lực và piston. Vào năm 1913, cầu vẫn sử dụng hệ thống này cho đến khi được thay thế bằng điện vào những năm 1970.

Mặc dù có chức năng thực tế, Tower Bridge đã trở thành một biểu tượng văn hóa ngay sau khi hoàn thành. Đến năm 1913, cầu đã xuất hiện trong vô số bức ảnh, bưu thiếp và tranh vẽ. Du khách chiêm ngưỡng vẻ đẹp của cầu, còn người London xem nó như một niềm tự hào về vị thế của thành phố trong thế giới hiện đại. Trong những năm trước Thế chiến I, cầu trở thành biểu tượng cho sự đổi mới và sức mạnh của nước Anh.

Cuộc sống hàng ngày của người dân London quanh Tower Bridge vào năm 1913 diễn ra sôi động. Cầu kết nối các bến cảng đông đúc với phần còn lại của thành phố, phục vụ cho thương mại. Tàu thuyền chở hàng từ khắp nơi trên thế giới di chuyển qua cầu, mang đến hàng hóa thiết yếu cho London. Các con phố trên cầu đông đúc công nhân, người bán hàng và gia đình, tạo nên một trung tâm hoạt động nhộn nhịp.

Năm 1913 cũng đánh dấu sự kết thúc của một thời kỳ hòa bình tương đối cho London và nước Anh. Chỉ một năm sau, thế giới sẽ bị cuốn vào cuộc Thế chiến I, và vai trò của Tower Bridge sẽ thay đổi. Trong thời gian chiến tranh, cầu được sơn màu xám để giảm khả năng nhìn thấy của kẻ thù. Cầu vẫn mở cửa trong suốt chiến tranh, tiếp tục phục vụ giao thông cho cả dân sự và quân sự.

Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1918, Tower Bridge trở thành biểu tượng của sự kiên cường. Cầu vẫn đứng vững qua bom đạn và hỗn loạn của cuộc chiến, giống như người dân Anh đã chịu đựng những khó khăn. Trong những năm sau chiến tranh, cầu trở lại vai trò quan trọng trong hạ tầng giao thông của London, tiếp tục phục vụ cho lượng giao thông ngày càng tăng.

Bước vào thế kỷ 20, Tower Bridge đã trải qua nhiều thay đổi. Năm 1976, cơ chế nâng cầu bằng hơi nước được thay thế bằng hệ thống điện hiện đại, giúp việc mở cầu trở nên hiệu quả hơn. Các lối đi trên cao, đã đóng cửa nhiều năm, được mở lại vào những năm 1980, cho phép du khách và người dân địa phương thưởng thức tầm nhìn tuyệt đẹp từ trên cao.

Ngày nay, Tower Bridge vẫn là một trong những địa danh dễ nhận diện nhất của London, ghi dấu lịch sử của thành phố và thể hiện sự kiên cường, đổi mới. Cầu đã chứng kiến hơn một thế kỷ biến đổi, từ những con phố nhộn nhịp của London thời Edward đến thành phố hiện đại ngày nay. Nó đã vượt qua hai cuộc thế chiến, những tiến bộ công nghệ và dòng chảy của lịch sử. Tuy nhiên, bất chấp mọi thay đổi, cầu vẫn giữ nguyên vẻ đẹp và sự kiêu hãnh như năm 1913, là biểu tượng vững bền của London.

Bức ảnh cầu Tower Bridge năm 1913 ghi lại khoảnh khắc khi thế giới sắp bước vào một thời kỳ thay đổi vĩ đại. Nó nhắc nhở về tầm quan trọng của cầu, không chỉ là một công trình hạ tầng mà còn là một phần của bản sắc thành phố. Tower Bridge tiếp tục là một điểm đến yêu thích, thu hút hàng triệu du khách mỗi năm đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp và lịch sử của nó. 

Pane e Vino - 3 Nguyễn Khắc Cần




CHUYỆN CHIẾC LON GUIGOZ

Lon Guigoz là vật dụng quen thuộc và gắn liền với tuổi thơ của nhiều người, từ trước 1975 cho đến những năm 1980. Đây là một loại lon sữa của hãng Nestle Pháp, Hòa Lan, phổ biến ở miền Nam trước 1975.
Lon Ghi-gô, có người gọi là lon gô, hay có nơi đọc trại đi, là mi-gô, bi-gô… đã gắn bó nặng tình nặng nghĩa với đời sống của nhiều thế hệ người Việt.
Loại sữa Guigoz của Hòa Lan được nhập cảng vào Việt Nam nhiều nhất là sau khi người Pháp trở lại Việt Nam vào khoảng năm 1956. Có hai loại sữa Guigoz, loại trắng cho trẻ sơ sinh, và loại màu vàng cho tuổi từ một năm trở đi. Loại sữa bột này phổ biến đến nỗi hầu như gia đình trung lưu nào cũng nuôi con bằng sữa Guigoz, và những chiếc lon nhôm, dày dặn, với dung tích 0.75 lít, có chiều cao 18cm, đường kính 8cm, không rỉ sét này thường được các bà nội trợ cất giữ để đựng thực phẩm ở trong bếp, trừ muối, nó có thể đựng đường, ớt, tiêu hành hay các thức ăn khô.
Trước năm 1975, tầng lớp lao động hoặc công nhân viên lương ít thì nuôi con bằng sữa bò, còn sữa Ghi gô dành cho tầng lớp trung lưu trở lên nuôi con vì hồi đó hàng ngoại nhập độc nhất chỉ có loại sữa này.
Khi dùng xong hết sữa, các vỏ lon được đem cho bà con thân thuộc để xài vì thời đó vỏ lon Ghi gô xài bền, mẫu mã đẹp, rất hữu dụng để đựng đường, bột và các thứ linh tinh khác cho các bà nội trợ. Các nhà giàu có nhà còn dùng lon Ghi gô để đựng vàng lá, đúng là thượng vàng hạ cám, lon này có mặt khắp nơi trong mọi gia đình.
Từ năm 1965 trở về sau, miền Nam đã nhập cảng nhiều loại sữa bột khác dành cho trẻ em; nhưng chiếc lon sữa Guigoz vẫn còn tồn tại trong hầu hết gia đình vì nó bền, chắc, khó móp méo hay hư hỏng.
Sau năm 1975, sữa Ghi-gô không còn được nhập cảng, và cái vỏ lon của nó trở nên quí giá và thông dụng với tất cả mọi tầng lớp trong xã hội miền Nam. Công chức và công nhân đi làm bới theo cơm đều đựng trong long Ghi-gô, dân làm rẫy đi rừng cũng vậy, vì nắp lon đậy kín, khi bị mưa lỡ để bên ngoài chưa kịp mang vào chòi cũng không bị nước mưa thấm vào. Và đối với dân lao động, vỏ lon Ghi-gô trở thành thân thiết hơn bao giờ hết vì ngày nào đi làm đều kè kè bới theo “gô cơm”.
Người thiết kế ra chiếc lon thon dài, có những đường viền nổi, có nắp đậy kín này không biết là ai. Nhưng chắc rằng, khi sáng tạo ra loại lon đặc biệt này cho nhãn sữa Guigoz, ông/bà này cũng không thể ngờ được rằng, nó hữu dụng, đa năng đến như vậy với người dân ở nơi xa xôi vùng viễn đông.
Rất nhiều người gốc Sài Gòn kể lại rằng loại sữa này gắn bó với tuổi thơ họ hệt như viên bi, con cá, cái kẹo.
Sau 1975, lon gô gắn bó với những người đi rừng lấy củi, làm rẫy, hoặc làm bạn với những người lính thất trận phải đi tù ở những nơi rừng thiêng nước độc… Lon gô có thiết kế nắp đậy kín, dùng để đựng cơm mang lên rừng, đến trưa mở ra mà cơm vẫn còn nóng hôi hổi. Dù chỉ là cơm độn bắp và muối mè nhưng là một bữa ăn thịnh soạn cho những người cần lao thuở cơ cực.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét