.

.

a

Hoa đào nở, chim én về, mùa xuân lại đến. Chúc quý thầy cô và anh chị em đồng môn năm mới Ất Tỵ 2025 : - nghìn sự như ý, vạn sự như mơ, triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc.
THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ, ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU - MỘT NĂM MỚI ẤT TỴ 2025 AN KHANG THỊNH VƯỢNG - VẠN SỰ NHƯ Ý

08 tháng 4 2025

Duntrune Castle – Pháo đài cổ bên hồ Crinan



Tọa lạc bên bờ phía bắc của Loch Crinan, vùng Argyll, Scotland, Duntrune Castle là một trong những lâu đài có người sinh sống lâu đời nhất tại Scotland, với nguồn gốc từ thế kỷ 12. Trải qua nhiều biến động, lâu đài từng thuộc quyền sở hữu của gia tộc MacDougall trước khi rơi vào tay gia tộc Campbell, một dòng họ quyền lực đã giữ vững nó trong nhiều thế kỷ.

Duntrune là một chứng nhân lịch sử và còn gắn liền với những câu chuyện huyền thoại về các cuộc xung đột giữa các gia tộc Scotland. Một trong những truyền thuyết nổi tiếng nhất kể về người thổi kèn MacDonald, bị giam cầm trong lâu đài nhưng đã dũng cảm cảnh báo gia tộc của mình về một cuộc phục kích bằng một giai điệu ai oán.

Trải qua nhiều lần trùng tu, Duntrune dần biến đổi từ một pháo đài phòng thủ thành một dinh thự gia đình dưới bàn tay của gia tộc Campbell. Ngày nay, lâu đài vẫn thuộc sở hữu tư nhân nhưng tiếp tục thu hút sự quan tâm bởi bề dày lịch sử, vẻ đẹp thơ mộng bên hồ Crinan và những giai thoại huyền bí về linh hồn vất vưởng trong tòa thành cổ.


Ta Là Dante – Và Đây Là Câu Chuyện Đời Ta

Ta là Durante di Alighiero degli Alighieri, nhưng thế gian chỉ gọi ta là Dante. Ta sinh ra ở Firenze năm 1265, giữa một thành phố đầy thi nhân, chiến binh và những cuộc tranh đấu không hồi kết. Số phận ta chưa từng được an yên—ta sinh ra để yêu, để mất mát, để chịu đọa đày và để viết. Người đời gọi ta là Cha đẻ của tiếng Ý, là thi nhân của Inferno, Purgatorio và Paradiso, kẻ đã lạc bước vào Địa ngục, trèo lên ngọn núi cứu rỗi, và ngước nhìn thiên đàng. Nhưng trước tất cả, ta chỉ là một người Firenze—một người Firenze bị lưu đày, vĩnh viễn không thể trở về.

Năm chín tuổi, ta thấy nàng, Beatrice Portinari, và ngay khoảnh khắc đó, linh hồn ta mãi thuộc về nàng. Nàng là hiện thân của vẻ đẹp, sự thánh thiện, của ánh sáng siêu phàm. Ta chỉ gặp nàng vài lần. Nàng cưới người khác. Nàng mất khi mới hai mươi bốn. Nhưng trong trái tim ta, nàng không bao giờ phai nhạt. Nàng trở thành nàng thơ của ta, vị cứu rỗi của ta, tình yêu vĩnh cửu mà ta chỉ có thể chạm tới qua thơ ca. Khi sống, nàng nằm ngoài tầm với. Nhưng trong La Divina Commedia, nàng dẫn đường ta đến tận những vì sao.

Firenze thời của ta là một chiến trường. Guelphs và Ghibellines giết chóc vì quyền lực. Ngay cả trong Guelphs, phe Trắng và phe Đen vẫn tiếp tục xâu xé nhau. Là một Guelph Trắng kiêu hãnh, ta chống lại sự can thiệp của Giáo hoàng vào thành phố mình. Và ta phải trả giá. Năm 1302, ta bị kết án lưu đày, bị buộc tội tham nhũng với những cáo buộc giả tạo. Nếu ta quay về, ta sẽ bị thiêu sống. Ta không bao giờ được thấy Firenze nữa.

Trong lưu đày, ta chẳng còn gì—không gia đình, không đất đai, không hy vọng. Nhưng ta có trí tuệ, có ngôn từ. Và thế là ta viết. Ta đi xuống Địa ngục, cùng Virgil—vị thi hào La Mã—dẫn đường. Ta chứng kiến tội nhân chịu cực hình—kẻ phản bội bị đóng băng, kẻ phàm ăn bị nhấn chìm trong bùn, kẻ trụy lạc bị cuốn vào cơn lốc bất tận. Ta đặt những kẻ thù của mình vào đó, để chúng bị trừng phạt đời đời. Ta leo lên Núi Luyện ngục, nơi những linh hồn chuộc tội để tìm sự cứu rỗi. Và ở đỉnh cao nhất, ta thấy Thiên đàng—nơi Beatrice đang đợi, nơi tình yêu thần thánh rực rỡ hơn cả ánh mặt trời. Đó là sự trả thù của ta. Đó là kiệt tác của ta.

Năm 1321, ta trút hơi thở cuối cùng tại Ravenna, xa Firenze, bị chôn vùi trong lưu đày như cách ta đã sống. Người ta nói Firenze về sau hối tiếc vì đã ruồng bỏ ta, nhưng thi hài ta vẫn nằm lại nơi ta đã chết. Họ có thể dựng tượng, có thể tạc khuôn mặt ta vào đá, nhưng họ không thể thay đổi sự thật. Ta là Dante Alighieri. Ta bị lưu đày, nhưng ta chưa bao giờ bị câm lặng. Lời ta là vĩnh cửu.

Pane e Vino - 3 Nguyễn Khắc Cần



NGƯỜI PHỤ NỮ NÀY ĐÃ THAY ĐỔI THẾ GIỚI – VÀ ĐÃ PHẢI TRẢ GIÁ

Marie Curie là một hiện tượng. Một người phụ nữ phi thường đã vượt qua mọi giới hạn, phá bỏ mọi định kiến và thay đổi bộ mặt khoa học thế giới. Sinh năm 1867 tại Ba Lan dưới sự chiếm đóng của Nga, bà lớn lên trong nghèo đói, trong một xã hội mà việc một người phụ nữ đam mê khoa học bị xem là điều ngớ ngẩn.

Cha bà là giáo viên vật lý, nhưng gia đình rất nghèo. Ngay từ nhỏ, Marie hiểu rằng để thành công, bà phải nỗ lực gấp trăm lần người khác. Bà học tập không ngừng nghỉ, làm việc đến kiệt sức với một mục tiêu duy nhất: chinh phục tri thức.

Bà rời quê hương sang Paris để theo học tại đại học Sorbonne. Ở đó, bà sống trong một căn gác lạnh lẽo, chịu đựng cơn đói, giá rét và cô đơn. Dưới ánh nến leo lét, bà vẫn miệt mài học tập, bất chấp mọi thiếu thốn.

Dù bị xem thường tại một ngôi trường không chào đón phụ nữ, Marie vẫn tốt nghiệp thủ khoa. Sau này, bà gặp Pierre Curie – một nhà khoa học đồng điệu về tâm hồn và đam mê. Họ yêu nhau không theo kiểu lãng mạn, mà là sự gắn bó của hai con người tận hiến cho nghiên cứu.

Họ cùng nhau nghiên cứu chất pechblende, phát hiện ra radium và polonium – hai nguyên tố phóng xạ quan trọng. Nhưng vì chưa hiểu rõ tác hại của phóng xạ, Marie đã bị nhiễm độc dần dần qua nhiều năm. Ngày nay, các sổ ghi chép của bà vẫn còn quá nguy hiểm để chạm vào mà không có thiết bị bảo hộ.

Năm 1903, Marie trở thành người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel. Nhưng ban đầu, giải thưởng chỉ được ghi cho chồng bà – vì xã hội lúc ấy không thể chấp nhận một phụ nữ đạt thành tựu như vậy. Chính Pierre Curie đã buộc ban tổ chức phải ghi nhận công lao của bà. Tám năm sau, Marie Curie giành giải Nobel thứ hai – một mình, và lập nên kỷ lục chưa ai phá được.

Bà không làm khoa học vì danh tiếng mà vì sự thật. Marie dạy chúng ta rằng nếu muốn tạo ra ảnh hưởng thật sự, phải chấp nhận đau khổ, bị xem thường, bị quên lãng, bị cướp công. Nhưng hãy tiếp tục, vì thời gian sẽ đưa mọi thứ về đúng chỗ.
Nếu bạn muốn thành công:
Hãy âm thầm làm việc, ánh sáng sẽ đến sau.

Đừng bao giờ hài lòng – như Marie Curie chưa bao giờ dừng lại.
Tìm kiếm sự thật, không phải sự công nhận.
Đừng chờ ai cho phép – hãy tự bước tới.
Hãy sẵn sàng trả giá, vì vĩ đại không bao giờ miễn phí.
Đừng đợi cảm hứng. Marie Curie đã đổ máu để khai phá khoa học. Còn bạn – hãy đứng dậy và bắt đầu hành động. Hẹn gặp bạn trên đỉnh cao. 

Sưu tầm





ĐIỀU THÚ VỊ VỀ NGUỒN GỐC CÁC ĐỊA DANH Ở MIỀN NAM VIỆT NAM.
1 – Tên do địa hình, địa thế:
Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
“Gió đưa gió đẩy,
về rẫy ăn còng,
về bưng ăn cá,
về giồng ăn dưa…”
Giồng
là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: “trên đất giồng mình trồng khoai lang…”
Một con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xã. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đã trở thành tên của một quận (huyện).
Lại nhắc đến một câu hát khác:
“Ai dzìa Giồng Dứa qua truông
Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em…”
Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Lương đến cầu Long Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).
Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy truông là gì?
Truông
là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ.
“Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
Tại sao lại có câu ca dao này?
Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.
Phá
là lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước xoáy, sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh Thừa Thiên, phía bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là sông Hương đổ ra cửa Thuận An.
Bàu
là nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu Cò.
Đầm
chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai bên nhưng giòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà Mau có Đầm Dơi, Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất lớn.
Bưng
từ gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng… mọc. Mùa mưa ở bưng thường có nhiều cá đồng.
“…về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa”.
Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.
Láng
chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở Đức Hòa (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như vậy vì ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài Gòn) xưa kia được gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp thuộc.
Trảng
chỗ trống trải vì không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia có nhiều cỏ bàng vì ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hòa có Trảng Bom, Trảng Táo.
Đồng
khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngã tư Bình Hòa, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài Gòn chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế vì trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.
Hố
chỗ đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở Củ Chi có Hố Bò, vì bò nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hòa có Hố Nai, là nơi những người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành một khu vực sầm uất.
2 – Tên bắt nguồn từ tiếng Khmer
Miền Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người Khmer sống chung với nhau,văn hóa đã ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu hiện rõ nét qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua thì rất Việt Nam nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đã Việt hóa một cách tài tình.
Cần Thơ
Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn Việt Nam và vội đi tìm hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt “cần” và “thơ”. Cần Thơ không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa. Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hóa, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer “kìntho”, là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá “lò tho”. Từ quan điểm vững chắc rằng “lò tho” là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hóa tiếng Khmer “kìntho”,người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer “kìntho”.
Mỹ Tho
Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, “mỹ” và “tho”, không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó thôi.
Sóc Trăng
Theo cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ tiếng Khmer “Srock Khléang”. Srock có nghĩa là xứ, cõi. Khléang là kho chứa vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua. Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng.Tên Sốc Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đã đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là giang; trăng là nguyệt). Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên,châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng.
Bãi Xàu
Bãi Xàu là tên một quận thuộc tỉnh Sóc Trăng. Đây là một quận ven biển nên có một số người vội quyết đoán, cho rằng đây là một trường hợp sai chính tả, phải gọi là Bãi Sau mới đúng. Thật ra, tuy là một vùng bờ biển nhưng Bãi Xàu không có nghĩa là bãi nào cả. Nó xuất phát từ tiếng Khmer “bai xao” có nghĩa là cơm sống. Theo truyền thuyết của dân địa phương, có địa danh này là vì nơi đây ngày trước, một lực lượng quân Khmer chống lại nhà Nguyễn đã phải ăn cơm chưa chín để chạy khi bị truy đuổi.
Kế Sách
Kế Sách cũng là một quận của Sóc Trăng. Kế Sách nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của sông Cửu Long), phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là K’sach, như vậy Kế Sách là sự Việt hóa tiếng Khmer “k’sach”.
Một số địa danh khác:
Cái Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hóa của “k’ran”, tức cà ràn, là một loại bếp lò nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.
Trà Vinh xuất phát từ “prha trapenh” có nghĩa là ao linh thiêng.
Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer “Prek Trakum”, là sông rau muống (trakum là rau muống).
Sa Đéc xuất phát từ “Phsar Dek”, phsar là chợ, dek là sắt.
Tha La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer “srala”, là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.
Cà Mau là sự Việt hóa của tiếng Khmer “Tưck Khmau”, có nghĩa là nước đen.
3 – Địa danh do công dụng của một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn.
Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn hướng dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi,người ta thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên, có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.
Chợ
Phổ biến nhất của các địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều nơi. Sài Gòn có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đã trở thành một địa danh quen thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài Gòn là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức. Địa danh về chợ còn được phân biệt như sau:
– Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ Tho, Chợ Búng (đáng lý là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài Gòn.
– Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa.
– Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (vì gần một cây cầu sắt) ở Gò Vấp, chợ Cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn.
Xóm
là một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đình…
Về các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ còn ở nông thôn mà không còn phổ biến ở thành thị.
Những địa danh còn sót lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm lưới hay làm bủa để nuôi tằm).
Thủ
là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông, vì khá phổ biến thời trước nên “thủ” đã đi vào một số địa danh hiện nay hãy còn thông dụng, như: Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An), Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa có lẽ là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm việc của họ. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.
Bến
ban đầu là chỗ có đủ điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ hoặc đậu lại do yêu cầu chuyên chở, lên xuống hàng. Sau này nghĩa rộng ra cho cả xe đò,xe hàng, xe lam…
Cũng như chợ, bến thường được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được cất lên nhiều nhất. Một số tên bến đặt theo cách này đã trở thành tên riêng của một số địa phương, như: Bến Cỏ, Bến Súc, Bến Củi ở Bình Dương. Bến Đá ở Thủ Đức, Bến Gỗ ở Biên Hòa.
Ngoài ra bến cũng còn có thể được đặt tên theo một đặc điểm nào ở đó, như một loại cây, cỏ nào mọc nhiều ở đó, và cũng trở thành tên của một địa phương, như:
Bến Tranh ở Mỹ Tho, Bến Lức ở Long An (đáng lý là lứt, là một loại cây nhỏ lá nhỏ, rễ dùng làm thuốc, đông y gọi là sài hồ).
4 – Một số trường hợp khác
Có một số địa danh được hình thành do vị trí liên hệ đến giao thông, như ngã năm, ngã bảy, cầu, rạch… thêm vào đặc điểm của vị trí đó, hoặc tên riêng của một nhân vật có tiếng ở tại vị trí đó. Ở Sài Gòn có rất nhiều địa danh được hình thành theo cách này: Ngã Tư Bảy Hiền, Ngã Năm Chuồng Chó, Ngã Ba Ông Tạ… Ở Trà Vinh có Cầu Ngang đã trở thành tên của một quận. Trường hợp hình thành của địa danh Nhà Bè khá đặc biệt, đó là vị trí ngã ba sông, nơi gặp nhau của 2 con sông Đồng Nai và Bến Nghé trước khi nhập lại thành sông Lòng Tảo. Lúc ròng, nước của hai con sông đổ ra rất mạnh thuyền bè không thể đi được, phải đậu lại đợi con nước lớn để nương theo sức nước mà về theo hai hướng Gia Định hoặc Đồng Nai.
“Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.”
Tương truyền có ông Thủ Huồng là một viên chức cai quản “thủ” ở vùng đó, tham nhũng nổi tiếng. Có lần nằm mơ thấy cảnh mình chết bị xuống âm phủ phải đền trả những tội lỗi khi còn sống. Sau đó ông từ chức và bắt đầu làm phúc bố thí rất nhiều; một trong những việc làm phúc của ông là làm một cái bè lớn ở giữa sông trên đó làm nhà, để sẵn những lu nước và củi lửa. Những ghe thuyền đợi nước lớn có thể cặp đó lên bè để nấu cơm và nghỉ ngơi. Địa danh Nhà Bè bắt nguồn từ đó.
Kết
Miền Nam là đất mới đối với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được hình thành trong vài thế kỷ trở lại đây nên những nhà nghiên cứu còn có thể truy nguyên ra nguồn gốc và ghi chép lại để lưu truyền. Cho đến nay thì rất nhiều địa danh chỉ còn lại cái tên mà ý nghĩa hoặc dấu vết nguyên thủy đã biến mất theo thời gian. Thí dụ, Chợ Quán ở đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, bây giờ chỉ biết có khu Chợ Quán, nhà thờ Chợ Quán, nhà thương Chợ Quán… chứ còn cái chợ có cái quán đố ai mà tìm cho ra được. Hoặc Chợ Đũi (có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi vì người buôn bán hay bị nhân viên công lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ hàng dày dệt bằng tơ lớn sợi, bây giờ mặt hàng đó đã biến mất nhưng địa danh thì vẫn còn. Ngoài ra, đất Sài Gòn xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau này thành phố được xây dựng một số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân vẫn còn dùng tên cây cầu cũ ở nơi đó để gọi khu đó, như khu Cầu Muối. Và cũng có một số địa danh do phát âm sai nên ý nghĩa ban đầu đã bị biến đổi nhưng người ta đã quen với cái tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ cái tên đã được đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban đầu, vì nơi đó có nhiều cây lứt; còn chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, sau này bán đủ mặt hàng và cái tên được viết khác đi).
Ps: Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình.

Sưu tầm




 

07 tháng 4 2025

CHIẾC XE MÁY ĐẦU TIÊN.




Năm 1869, thế giới đã chứng kiến sự ra đời của chiếc xe máy đầu tiên với động cơ hơi nước đốt than, một phát minh mở cánh cửa cho phương tiện giao thông hiện đại.


Chiếc xe mô tô này, trông như bước ra từ các trang khoa học viễn tưởng, được trang bị một động cơ hơi nước nhỏ đốt than để tạo ra năng lượng, cho phép nó di chuyển mà không cần đến sức lực của con người. Mặc dù nguyên thủy và nặng nề so với những chiếc xe máy ngày nay, nhưng nó đã mở đường cho sự phát triển của những mẫu xe máy hiện đại.

Hãy tưởng tượng cảm giác của con người vào thời điểm họ lần đầu tiên chứng kiến một cỗ máy tự di chuyển bằng bánh xe! Phát minh mang tính cách mạng này đã truyền cảm hứng cho các nhà phát minh cải tiến động cơ, từ đó dẫn đến sự ra đời của động cơ đốt trong.

Vì vậy, chiếc xe máy hơi nước đầu tiên không chỉ đặt nền móng cho ngành giao thông cá nhân hiện đại mà còn thay đổi cách con người đi lại, mở ra những chân trời mới cho sự phiêu lưu và khám phá. 




Cannero Riviera, nằm trên hồ Maggiore ở vùng Piedmont, Ý, là một điểm đến tuyệt đẹp với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và không khí trong lành. Ngôi làng này nổi tiếng với khí hậu ôn hòa, khiến nó trở thành một nơi lý tưởng để nghỉ dưỡng quanh năm.


Cannero Riviera tự hào với những khu vườn tươi tốt, những con đường lát đá và những ngôi nhà màu pastel duyên dáng. Những vườn cây ăn quả và vườn hoa tại đây mang đến cho du khách cảm giác bình yên và thư thái. Đặc biệt, ngôi làng còn nổi tiếng với những cánh đồng trồng cam và chanh, tạo nên một cảnh quan rực rỡ và thơm ngát.

Bên cạnh vẻ đẹp tự nhiên, Cannero Riviera còn có những công trình lịch sử và văn hóa đáng chú ý. Những tòa nhà cổ kính, những nhà thờ với kiến trúc đẹp mắt và các bảo tàng nhỏ là nơi du khách có thể tìm hiểu về lịch sử và văn hóa của vùng đất này.

Hồ Maggiore với làn nước trong xanh và bờ hồ thơ mộng là nơi lý tưởng cho các hoạt động thể thao dưới nước như bơi lội, chèo thuyền và lướt ván. Đi bộ dọc theo bờ hồ hoặc leo núi trên những con đường mòn quanh Cannero Riviera cũng là những trải nghiệm không thể bỏ qua.

Với sự kết hợp giữa thiên nhiên tươi đẹp, lịch sử phong phú và văn hóa đặc sắc, Cannero Riviera trên hồ Maggiore thực sự là một viên ngọc quý của vùng Piedmont, hấp dẫn du khách từ khắp nơi trên thế giới. 

Sưu tầm


Phil Vincent và Arthur Bourne là hai bộ óc vĩ đại đã góp phần định hình lịch sử mô tô Anh Quốc theo những cách khác nhau. Một người là thiên tài kỹ thuật đứng sau thương hiệu Vincent Motorcycles huyền thoại, người còn lại là biên tập viên sắc sảo của The Motor Cycle, tạp chí mô tô có tầm ảnh hưởng sâu rộng.
Philip Conrad Vincent, sinh năm 1908, là một doanh nhân và kỹ sư xuất chúng. Khi còn là sinh viên tại Đại học Cambridge, ông đã nuôi tham vọng tạo ra những chiếc mô tô nhanh nhất và tiên tiến nhất thế giới. Năm 1928, ông mua lại HRD Motorcycles và đổi tên thành Vincent HRD. Dưới sự dẫn dắt của Vincent, thương hiệu này nhanh chóng trở thành biểu tượng tốc độ và kỹ thuật với những mẫu xe như Vincent Black Shadow – chiếc mô tô nhanh nhất thời đại với vận tốc có thể vượt 200 km/h. Xe Vincent gây ấn tượng với khung sườn tiên tiến, hệ thống phuộc độc đáo và động cơ V-twin mạnh mẽ. Dù công ty phải đóng cửa vào năm 1955 vì khó khăn tài chính, nhưng những chiếc Vincent vẫn được săn lùng như những tác phẩm nghệ thuật cơ khí, cho thấy tầm nhìn vĩ đại của Phil Vincent.
Trong khi Vincent tạo ra những cỗ máy huyền thoại, Arthur Bourne lại góp phần lan tỏa niềm đam mê ấy qua ngòi bút sắc sảo của mình. Với bút danh "Torrens", ông đã biến The Motor Cycle thành diễn đàn hàng đầu cho giới đam mê mô tô. Ông viết về những mẫu xe mới và có những bài phân tích sâu về công nghệ, thử nghiệm xe và dự đoán xu hướng tương lai của ngành công nghiệp hai bánh. Từ đầu thế kỷ 20, tạp chí The Motor Cycle đã đồng hành cùng những thương hiệu lừng danh như Vincent, Triumph, Norton và BSA, trở thành nguồn tư liệu quý giá và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của ngành mô tô.
Dù trên hai con đường khác nhau, Phil Vincent và Arthur Bourne đều có chung một tầm nhìn: thúc đẩy ngành công nghiệp mô tô vươn xa bằng tốc độ, chất lượng và sự đổi mới không ngừng. Những chiếc Vincent Black Shadow vẫn được xem là đỉnh cao của mô tô cổ điển, trong khi những bài viết của Bourne vẫn là kim chỉ nam cho những ai muốn hiểu về lịch sử mô tô Anh Quốc. Cả hai đã cùng nhau ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử, để lại một di sản sống mãi với thời gian.

Sưu tầm



Tại tiểu bang Massachusetts của Hoa Kỳ có một người thợ thủ công khiêm tốn tên là Elias Howe. Elias Howe sinh năm 1819 và không may qua đời khi mới 48 tuổi. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời mình, Elias đã mang đến cho thế giới một thứ mà họ sẽ không bao giờ quên — máy khâu, được ông phát minh vào năm 1845 (mặc dù một số nguồn tin đề cập đến năm 1830). Phát minh này đã mang đến một cuộc cách mạng trong ngành may mặc.
Chiếc máy khâu đầu tiên mà Elias Howe phát minh có một cây kim có lỗ (lỗ xỏ chỉ) nằm ở gốc kim, giống như những chiếc kim khâu tay mà chúng ta sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Khi Elias bắt đầu phát triển chiếc máy của mình, ông đã áp dụng thiết kế truyền thống này, đã được sử dụng trong hàng nghìn năm, đặt lỗ ở đầu kim. Nhưng vì lý do này, chiếc máy không hoạt động bình thường — nó chỉ có thể khâu giày chứ không phải vải. Do đó, nó không phù hợp để may quần áo.
Elias đã suy nghĩ về vấn đề này trong một thời gian dài, cố gắng tìm ra giải pháp. Cuối cùng, số phận đã mỉm cười với anh, và anh đã có một giấc mơ giải quyết được vấn đề. Trong giấc mơ, anh thấy mình bị một bộ tộc man rợ bắt giữ. Chúng ra lệnh cho anh phải tạo ra một chiếc máy khâu hoạt động trong vòng 24 giờ — nếu không anh sẽ bị giết. Elias đã cố gắng hết sức để chế tạo chiếc máy trong thời gian quy định nhưng không thành công. Khi thời gian trôi qua, những người trong bộ tộc đã lao vào anh với những ngọn giáo trên tay để giết anh.
Khi Elias nhìn kỹ những ngọn giáo, anh nhận thấy rằng mỗi ngọn giáo đều có một lỗ gần đầu. Ngay khi nhìn thấy điều này, anh đã tỉnh dậy khỏi giấc mơ.
Giấc mơ đó đã loại bỏ chướng ngại vật trong phát minh của anh. Anh đã thiết kế lại cây kim có lỗ gần đầu, giống như những ngọn giáo đó, và kết quả hoàn toàn khác. Cùng một chiếc máy không hoạt động khi lỗ kim ở trên cùng bắt đầu hoạt động bình thường khi lỗ kim được đặt ở dưới cùng. Tiềm thức của Elias đã cho anh thấy một góc nhìn khác, và anh đã hiểu điều đó — cuối cùng đã tìm thấy câu trả lời mà anh đang tìm kiếm.
Thật vậy, khi một người làm việc chăm chỉ và nỗ lực chân thành, bản thân thiên nhiên sẽ giúp vượt qua những trở ngại.




Núi Everest là ngọn núi cao nhất thế giới tính từ mực nước biển, ở độ cao 8.848,86 mét. Nhưng người khổng lồ thực sự là Mauna Kea ở Hawaii. Từ chân núi dưới đáy đại dương đến đỉnh, nó cao 10.210 mét, cao hơn Núi Everest khoảng 1.400 mét. Chỉ một phần của Mauna Kea nhô lên khỏi mặt nước, đạt độ cao 4.207 mét so với mực nước biển. Núi Everest vẫn là ngọn núi cao nhất trên Trái Đất, nhưng Mauna Kea mới là người khổng lồ thực sự khi bạn xem xét tổng chiều cao của nó: một người khổng lồ ẩn mình trong Thái Bình Dương. 

Sưu tầm


CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU SÓC TRĂNG THAM QUAN, ỦNG HỘ HOANGDIEUTRUONGXUASAIGON.BLOGSPOT.COM. CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM NHIỀU SỨC KHỎE, THÀNH CÔNG TRONG CÔNG VIỆC.