Chân dung Lola (Ảnh: theatlantic)
Cô sống với chúng tôi 56 năm. Cô ấy nuôi mấy anh
chị em tôi mà chẳng cần được trả tiền. Trước khi tôi nhận ra
cô ấy là ai, vai trò là gì trong gia đình mình, tôi chỉ mới 11
tuổi. Hũ tro cốt bằng nhựa của cô được tôi cất cẩn thận trong chiếc túi
vải lanh, đóng gói vào hành lý, sẵn sàng cho chuyến bay vượt Thái Bình Dương
đến với Manila. Từ đó, tôi sẽ bắt xe đến một làng quê xa xôi và tôi
sẽ giao tất cả những gì còn sót lại của người phụ nữ đã
“làm nô lệ” cho gia đình tôi suốt 56 năm cho người thân
của cô ấy.
Cô ấy tên Eudcia
Tomas Pulido. Chúng tôi vẫn hay gọi cô là Lola. Cô cao khoảng 1m50, có làn da
nâu đỏ, đôi mắt màu hạnh nhân mà tôi sẽ chẳng thể nào quên được. Năm
cô Lola được 18 tuổi, ông tôi đã trao cô cho mẹ tôi như một món quà,
và khi gia đình tôi chuyển đến Mỹ sinh sống, chúng tôi mang cô ấy
cùng đi. Một ngày của Lola bắt đầu trước khi mọi người thức giấc và kết thúc
khi chúng tôi đã ngon giấc. Cô ấy phải chuẩn bị đủ 3 bữa ăn một
ngày, đảm bảo nhà cửa sạch sẽ, đợi bố mẹ tôi về và chăm sóc 4
anh chị em chúng tôi. Bố mẹ tôi chưa bao giờ trả công
cho cô ấy và thậm chí họ còn mắng chửi cô ấy liên tục. Dù
cô ấy không bị còng chân lại nhưng thực ra thì cô ấy chẳng khác
gì một người nô lệ trong nhà tôi cả. Rất nhiều đêm, khi vào nhà tắm, tôi
thấy cô ấy ngủ thiếp đi ở một góc, tay vẫn còn ôm
mớ quần áo giặt ủi, ngón tay cô thậm chí còn như đang gấp quần
áo vậy.
Đối với những người
hàng xóm xung quanh, chúng tôi là một gia đình di dân kiểu mẫu. Bố tôi có
bằng luật sư, mẹ thì chuẩn bị trở thành bác sĩ, anh chị em
chúng tôi đều đạt điểm số tốt, biết nói “làm ơn” và “cảm ơn”.
Chúng tôi không bao giờ nói về Lola. Bí mật của chúng tôi
trở thành điều cốt lõi của việc chúng tôi là ai, ít nhất là để trở thành
những đứa trẻ Mỹ như chúng tôi vẫn mong muốn. Năm 1999, sau khi
mẹ tôi mất vì bệnh bạch cầu, Lola đến sống với tôi tại một thị trấn
nhỏ ở Seattle. Tôi lập gia đình, có sự nghiệp, một ngôi
nhà ở ngoại ô - một giấc mơ Mỹ mà nhiều người ao ước.
Đến Manila, tôi
mở hành lý của mình ra xem để đảm bảo hũ tro cốt của Lola
vẫn ở đó. Ngoài kia, tôi ngửi thấy mùi quen thuộc: một sự pha
trộn của khí thải và chất thải, mùi biển, trái cây và cả mồ hôi.
Sáng hôm sau, tôi được
một người tài xế tên Doods, tuổi cũng trung niên chở tôi đến quê nhà
của Lola. Cảnh vật xung quanh thật sự khiến tôi choáng váng. Xe cộ đông
khủng khiếp, người thì len lỏi giữa dòng xe cộ như nêm ấy. Những
người bán hàng rong cứ thế chân trần chạy dọc theo những chiếc ô tô
để bán những bao thuốc lá, ít đậu phộng luộc, mấy đứa trẻ ăn xin
cứ thế ép sát mặt chúng vào cửa sổ xe.
Doods và tôi tiến
thẳng đến nơi mà câu chuyện về Lola được bắt đầu, phía bắc của đồng bằng
trung tâm: tỉnh Tarlac - vùng chuyên trồng lúa gạo, quê nhà của một trung úy
quân đội - ông tôi Tomas Asuncion. Những câu chuyện gia đình đã tạo nên
hình ảnh một ông Trung úy Tom đáng sợ với tâm trạng kì lạ, bí ẩn,
có nhiều đất đai nhưng ít tiền, và giữ những cô nhân tình trong các ngôi
nhà nằm trên lãnh thổ ông. Vợ ông chết sau khi hạ sinh ra đứa
con duy nhất của họ - mẹ tôi.
Trung úy Tom có tới 3
gia đình utusan - tức người hầu trong tiếng Tagalog - sống dựa vào tài sản của
ông. Vào mùa xuân năm 1943, khi hòn đảo đang bị Nhật Bản chiếm đóng, ông
đã mang về nhà một cô gái xuất thân một gia đình làm nông. Ông tôi rất
khôn ngoan. Ông biết rằng người con gái ấy không tiền bạc, không được đến
trường và rất dễ uốn nắn. Bố mẹ cô muốn cô phải kết hôn với một
gã chăn nuôi lợn gấp đôi tuổi cô. Cô rất tuyệt vọng nhưng không biết phải làm
gì khác, cũng chẳng có nơi nào để đi. Lợi dụng chuyện đó, ông tôi đã tiếp
cận cô với một lời đề nghị: cô sẽ có cơm ăn, chỗ ở nếu cô
hứa sẽ chăm sóc đứa con gái 12 tuổi của ông khi đó.
Dĩ nhiên là Lola đồng
ý, cô biết rằng đó là lựa chọn tốt cho cuộc sống hiện tại của cô, hơn là lấy gã
chăn lợn kia.
“Cô gái này là món quà
bố tặng con”, ông đã nói với
mẹ tôi như thế. Dù biết rằng không còn lựa chọn nào khác nhưng
mẹ tôi vẫn tỏ thái độ: “Nhưng con không muốn cô ta”.
Và rồi ông tôi đã lên
đường chiến đấu chống lại Nhật Bản, để mẹ tôi ở lại với
Lola. Cô ấy chăm lo cho mẹ từng bữa ăn, giấc ngủ, từng chiếc váy,
để mẹ tôi lúc nào cũng luôn xinh đẹp. Mỗi khi ra đường, Lola luôn sát
bên cầm dù che cho mẹ tôi. Khi màn đêm buông xuống, Lola vẫn còn hàng tá
việc khác phải làm, nào là cho chó ăn, quét nhà, gấp áo quần mà cô đã giặt bằng
tay bên bờ sông Camiling. Rồi cô lại ngồi cạnh giường, trông chừng
mẹ tôi ngủ. Cuộc sống của Lola cứ thế trôi qua cùng mẹ tôi.
Một ngày nọ, ông tôi
bất ngờ trở về nhà, bắt gặp mẹ tôi đang đứng nói chuyện với
một chàng trai mà ông đã cấm không cho bà tiếp xúc. Trong cơn tức giận, ông bắt
bà đứng sát bàn chờ hình phạt từ ông. Mẹ tôi chỉ biết nhìn
Lola, khi đó đang đứng nép vào góc nhà. Mãi một lúc sau, bằng giọng run run
sợ hãi, mẹ bảo với ông Lola sẽ là người chịu phạt thay mình. Mặc
Lola nài nỉ, van xin nhưng mẹ tôi vẫn không thay đổi. Lola đành phải tiến
đến chiếc bàn ăn, tay run run nắm chặt cạnh bàn. Ông tôi bắt đầu rút thắt lưng
và quất tới tấp cô ấy 12 roi. Lola tuyệt nhiên không dám thút thít
hay hó hé nửa lời.
Đến cuối đời,
mẹ tôi đã kể lại câu chuyện này và thậm chí còn hỏi tôi bằng một
giọng vui vẻ: “Con có tin là mẹ đã làm thề không?”. Mang
chuyện này đến hỏi Lola, cô bảo rằng muốn nghe chi tiết từng lời kể của
mẹ. Cô chăm chú lắng nghe, mắt nhắm lại và sau đó nhìn tôi buồn bã nói: “Phải.
Nó là như thế”.
7 năm sau, năm 1950,
bố mẹ tôi kết hôn và chuyển đến Manila sinh sống. Dĩ nhiên, Lola cũng
đi cùng. Năm 1951, anh trai tôi Arthur ra đời, sau đó là đến tôi và 3 anh
chị em khác liên tiếp nhau. Bố mẹ tôi buộc Lola phải cống hiến
hết mình, chăm sóc bọn tôi thật chu toàn, như cô đã chăm sóc
bố mẹ tôi. Vậy là cô chăm lo cho chúng tôi khi bố mẹ tôi đi
học và đạt được thành tích tốt, bằng cấp cao, nhưng lại chẳng tìm được việc.
Rồi một ngày nọ, bố mang về một tin chấn động: bố được nhận vào
Bộ Ngoại giao với vai trò nhà phân tích thương mại, lương ít nhưng
sẽ làm việc tại Mỹ - nơi mà cả bố và mẹ tôi đều
ao ước, nơi họ có thể biến mọi ước mơ thành hiện thực.
Bố được phép mang
gia đình theo và một người giúp việc. Bố mẹ biết cả hai đều phải
đi làm và họ cần đến Lola để chăm sóc con cái, nhà cửa. Khi nhận được
thông báo của mẹ tôi, Lola lập tức không đồng ý với lý do mà nhiều năm
sau, Lola mới dám nói với tôi rằng: “Vì nó quá xa. Bố mẹ con
sẽ không để cô về nhà”.
Cuối cùng, điều thuyết
phục Lola theo gia đình tôi là lời hứa của bố rằng mọi
thứ sẽ khác khi ở Mỹ. Ông nói với cô rằng khi họ vững
vàng về kinh tế, họ sẽ trả cô thù lao và Lola có
thể gửi tiền về cho bố mẹ, họ hàng của cô.
Bố mẹ Lola trước giờ vẫn sống trong một ngôi nhà
dơ bẩn, ẩm thấp và lời hứa ấy đã khiến Lola vẽ nên bức
tranh đẹp có thể giúp bố mẹ xây một ngôi nhà bê tông khang
trang, có thể thay đổi cuộc sống của họ tốt đẹp hơn.
Chúng tôi
hạ cánh ở Los Angeles vào ngày 12/5/1964 với rất nhiều
đồ đạc được gói gọn trong những thùng các-tông buộc dây thừng chắc chắn.
Tính tới thời điểm đó, Lola đã theo mẹ tôi được 21 năm. Bằng nhiều cách,
đối với tôi, cô ấy còn hơn cả bố mẹ tôi nữa. Đó là gương
mặt đầu tiên tôi nhìn thấy vào buổi sáng và cuối cùng trước khi đi ngủ. Khi còn
là một đứa trẻ, tôi đã có thể gọi tên Lola ngay cả trước khi biết gọi
bố, mẹ. Khi chập chững tập đi, tôi sẽ không ngủ nếu không có Lola
ôm ấp hay ít nhất là ở cạnh tôi.
Khi chuyển đến Mỹ, tôi
chỉ là một cậu bé 4 tuổi, quá nhỏ để thắc mắc về vai trò
của Lola trong gia đình tôi. Nhưng khi lớn lên ở nơi này, chúng tôi
nhìn thấy thế giới hoàn toàn khác biệt. Bước nhảy vọt băng qua đại dương
đã mang đến một sự nhảy vọt trong nhận thức chúng tôi.
Lola không bao
giờ được nhận tiền lương. Cô nhiều lần hỏi về khoản tiền ấy
trong suốt 2 năm trời đầu tiên ở Mỹ. Mẹ cô ốm mà gia đình
cô lại không có tiền mua loại thuốc đặc trị. Đắn đo mãi cô mới dám hỏi
bố mẹ tôi. Nếu mẹ tôi chỉ biết thở dài thì bố tôi
đã gầm lên: “Cô còn dám hỏi sao? Cô không thấy chúng tôi đang rất khó
khăn hả? Hỏi mà không thấy xấu hổ sao?”.
Bố mẹ tôi đã
mượn tiền để chuyển đến Mỹ và sau đó là vay mượn nhiều hơn
để sinh sống qua ngày ở nơi đây. Bố tôi được chuyển
từ Tổng lãnh sự quán ở Los Angeles tới cơ quan lãnh
sự Philippine ở Seattle với mức lương 5.600 USD một năm. Ngoài
ra, ông còn phải làm thêm 2 việc khác ngoài giờ nữa. Mẹ tôi thì sau
một thời gian xin việc đã được nhận vào vài phòng thí nghiệm y khoa với vai trò
kỹ thuật viên. Chúng tôi gần như không gặp mặt bố mẹ mà nếu
có thì họ cũng đã kiệt sức và cáu gắt.
Lúc nào mẹ tôi
về nhà cũng kiếm cớ để mắng chửi Lola, nào là nhà không sạch,
nào là không để thư đúng chỗ. “Tôi nói bao nhiều lần là thư phải
để ở đây khi tôi về nhà?”. Bằng giọng cay độc nhất có
thể, mẹ bảo: “Nó khó lắm hả? Một thằng ngu cũng nhớ được nữa
đấy”. Rồi đến khi bố tôi về là đến lượt ông mắng chửi Lola.
Khi bố tôi cất giọng, tất cả mọi người trong nhà đều phải khúm núm,
im re. Đôi khi, cả bố mẹ tôi cùng nhau “đồng thanh” chửi rủa
Lola cho đến khi cô ấy chịu không nổi bật khóc nức nở. Mọi
thứ cứ như thế như thể đó là mục đích của họ.
Điều đó khiến tôi
hoang mang lắm. Bố mẹ rất tốt, rất yêu thương bọn tôi. Nhưng
họ chỉ yêu thương chúng tôi trong khoảnh khắc nào đó thôi, còn lại
vẫn là Lola. mãi cho đến khi tôi 11 hay 12 tuổi gì đó, tôi mới
lờ mờ nhận ra vị trí của Lola trong gia đình. Anh trai tôi -
Arthur - thì đã phát hiện ra từ lâu rồi. Anh là người đưa từ “nô lệ”
vào đầu tôi khi nói về vị trí của Lola. Trước đó, anh chỉ nói
với tôi rằng cô ấy là một thành viên không may mắn trong gia đình tôi mà
thôi. Tôi ghét những lúc bố mẹ mắng chửi Lola nhưng tôi không nghĩ
rằng họ và những việc làm của họ là vô đạo đức.
“Em có biết ai
bị đối xử như Lola không? Ai phải sống cuộc sống
như Lola?”, Arthur hỏi tôi.
Rồi không đợi tôi trả lời, anh tổng kết hiện thực của Lola: không được
trả công, chùi dọn nhà vệ sinh mỗi ngày, bị mắng chửi nếu ngồi
quá lâu hay ngủ quá sớm, bị chửi rủa nếu dám trả lời, mặc những
bộ quần áo may sẵn rẻ tiền, ăn đồ thừa, đồ bỏ đi trong
bếp, hiếm khi rời khỏi nhà, không có bạn bè hay sở thích nào khác, không
có khu vực riêng tư. Quả thật là vậy, cô chẳng có chỗ nghỉ ngơi
riêng mà phải ngủ trên một chiếc ghế dài hay nhà kho, một góc nào đó
trong phòng em tôi, thậm chí là nằm giữa đống quần áo.
Chúng tôi không
thể xác định chính xác người nào tương tự như Lola ngoại
trừ những nhân vật nô lệ trên TV, trong phim ảnh,
như Pompey trong phim The Man Who Shot Liberty Valance. Trong tâm trí của
tôi, tôi cho rằng: Lola là Pompey, Pompey là Lola.
Một tối nọ,
bố tôi phát hiện ra em gái 9 tuổi của tôi khi đó - Ling - bỏ bữa tối.
Ông lại mắng nhiếc Lola lười biếng. “Tôi đã cố gắng cho Ling ăn”,
Lola cố gắng giải thích khi bố tôi nổi cơn thịnh nộ, nhìn chằm chằm
cô ấy. Lời nói yếu ớt của Lola đã khiến bố tôi lên cơn điên
tiết, ông đấm ngay vào vai Lola. Khi cô ấy chạy khỏi phòng rồi tôi vẫn có
thể nghe thấy tiếng khóc của cô ấy, rất đáng thương.
“Ling không đói mà
bố”, tôi lên tiếng
giải thích. Bố mẹ lập tức quay lại nhìn tôi, hình
như họ hơi bất ngờ. Thông thường, tôi sẽ cảm giác được gương mặt
mình giật từng cơn trước khi khóc nhưng lần này thì tôi không khóc. Trong mắt
mẹ tôi là một điều gì đó mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây, hình
như là một sự ghen ghét. “Con đang cố gắng bảo
vệ Lola đó hả?”, bố tôi gằn từng chữ. “Ling nói nó
không đói”, tôi thì thầm trả lời lại với bố.
Khi đó tôi 13 tuổi. Đó
là nỗ lực đầu tiên của tôi dành cho người phụ nữ đã chăm sóc tôi
suốt bao nhiêu năm vừa qua. Người phụ nữ đã dùng ngôn
ngữ Tagalog để giúp tôi đi vào giấc ngủ, nuôi tôi lớn lên, lo cho tôi
từng chiếc quần chiếc áo, cùng tôi đến trường, đón tôi về lúc tan học.
Tôi ốm nặng chẳng thể ăn, cô sẽ nhai nhuyễn, mớm thức ăn cho
tôi. Khi tôi phải bó bột chân, cô sẽ lau cho tôi, mang thuốc đến dù có là
nửa đêm và giúp tôi hồi phục suốt nhiều tháng liền. Tôi cáu kỉnh, cô chẳng phàn
nàn hay mất kiên nhẫn, chẳng bao giờ.
Giờ đây tiếng
khóc của cô ấy đã khiến tôi phát điên lên.
Ở Philippine,
bố mẹ tôi cảm thấy không cần phải giấu việc đối xử tệ bạc
với Lola. Ở Mỹ, họ đối xử với cô ấy tệ hơn nhưng
phải rất nỗ lực để che giấu điều đó. Khi có khách đến nhà,
bố mẹ tôi sẽ lờ cô ấy đi hay nếu được hỏi,
họ sẽ nói dối và nhanh chóng đổi đề tài. 5 năm
sống ở North Seattle, chúng tôi được gia đình Missler giàu có gồm 8
thành viên giới thiệu những thứ như mù tạt, câu cá hồi, cắt cỏ, xem
bóng đá trên TV, la hét suốt trận đấu. Lola sẽ phục vụ thức ăn, nước
uống suốt trận đấu, bố mẹ tôi sẽ mỉm cười, cảm ơn trước khi
cô ấy biến mất thật nhanh. “Người phụ nữ bé nhỏ trong nhà
bếp là ai đấy”, ông bố gia đình nọ tò mò. “Một người
họ hàng ở quê ấy mà”, bố tôi xấu hổ trả lời.
Nhưng bạn thân tôi -
Billy Missler - lại không tin vào điều đó. Cậu ta ở nhà tôi khá
nhiều, có khi cả cuối tuần, đủ để cậu ta lờ mờ biết
được bí mật gia đình tôi. Một lần Billy nghe thấy mẹ tôi la hét trong nhà
bếp và khi tìm thấy mẹ tôi, cậu ta đã thấy mẹ tôi đỏ mặt nhìn
chằm chằm vào Lola đáng thương đang đứng co ro một góc nhà. Vài giây sau tôi
mới có mặt ở “hiện trường”. Gương mặt Billy khi đó trông bối rối và
lúng túng, như muốn dò hỏi tôi chuyện gì đang xảy ra. Tôi vẫy tay ra hiệu
Billy hãy quên nó đi.
Tôi nghĩ Billy cũng
cảm thấy xót xa cho Lola. Cậu ta vẫn hay khen cô ấy nấu ăn ngon, khiến cô
cười vui vẻ - nụ cười mà chúng tôi chưa bao giờ thấy. Những lần
Billy ngủ lại, Lola đã nấu món Philippine mà Billy thích nhất: thịt bò
tapa với cơm trắng. Nấu ăn là cách diễn đạt duy nhất của Lola. Chỉ qua
cách cô ấy phục vụ, cho chúng tôi ăn, tôi cũng hiểu được rằng cô ấy
rất yêu chúng tôi.
Một lần nọ, tôi bảo
với Billy rằng Lola là người dì xa của chúng tôi, Billy bảo cậu ấy vẫn
nghĩ Lola là bà tôi ngay từ lần đầu gặp gỡ. “Vì sao cô ấy lúc nào
cũng làm việc?”, Billy thắc mắc, “Vì cô ấy thích thế”, tôi trả lời.
“Vì sao bố mẹ cậu la mắng cô ấy”, “À, vì tai cô ấy không
thính cho lắm”, tôi xấu hổ trả lời.
Thừa nhận sự thật
nghĩa là sẽ phơi bày tất cả chúng tôi. Chúng tôi đã trải qua thập
kỷ đầu tiên trên đất nước này, tìm hiểu tập quán của người dân vùng đất
mới và cố gắng để hòa hợp. Sở hữu một người nô lệ rõ ràng
là không hợp pháp. Có một người nô lệ khiến chúng tôi nghi
ngờ về đạo đức của chính mình. Cho dù chúng tôi xứng đáng được chấp
nhận hay không, tôi vẫn cảm thấy xấu hổ về tất cả,
kể cả sự đồng lõa của tôi. Tôi có nên tiếp tục ăn thức ăn
cô ấy nấu không, có nên mặc quần áo cô ấy giặt và ủi phẳng phiu
không? Nhưng mất cô ấy là một mất mát lớn của tôi.
Còn một lý do khác mà
chúng tôi phải giữ bí mật về Lola: Visa du lịch của cô ấy đã hết
hạn vào năm 1969, 5 năm sau khi chúng tôi đặt chân đến Mỹ. Cô ấy có một
hộ chiếu đặc biệt liên quan đến công việc của bố tôi. Sau hàng loạt
vụ rắc rối với cấp trên, bố tôi đã rời khỏi Lãnh sự quán và
tuyên bố sẽ ở lại Mỹ. Ông đã sắp xếp giấy tờ cho gia đình
nhưng với Lola thì không thể, ông lẽ ra phải đưa cô ấy về lại
Philippine.
Mẹ Lola mất vào
năm 1973, bố cô ấy cũng đi theo bà 6 năm sau đó. Cả hai lần,
trong cơn tuyệt vọng, cô bạo gan xin bố mẹ tôi cho về nhà. Nhưng
cả hai lần, bố mẹ tôi chỉ biết nói: “Rất tiếc...”. Không tiền,
không thời gian. Bọn trẻ cần cô ấy. Bố mẹ tôi phần cũng lo
sợ cho họ - điều mà họ đã thừa nhận với tôi sau đó. Nếu chính
quyền biết về Lola, bố mẹ tôi có thể gặp rắc rối, thậm chí
là bị trục xuất. Họ không thể mạo hiểm.
Sau khi
bố mẹ qua đời, Lola cảm thấy bị sỉ nhục ghê gớm và im lặng
suốt nhiều tháng. Cô thậm chí còn không phản hồi khi bố mẹ tôi vu
vạ cô nhưng điều đó không làm bố mẹ tôi ngưng mắng nhiếc, bêu
xấu cô. Lola đáng thương chỉ biết cúi gằm đầu xuống rồi tập trung làm việc
của mình.
Việc từ chức của
bố tôi đã tạo nên một giai đoạn hỗn loạn cho gia đình sau đó. Tiền bạc
bị xiết chặt hơn, bố mẹ tôi không nhìn mặt nhau. Họ liên
tục di chuyển cả gia đình từ Seattle đến Honolulu rồi quay lại
Seattle tới vùng đông nam Bronx, và cuối cùng dừng
chân ở thị trấn Umatilla, bang Oregon có dân số khoảng 750
người. Trong suốt quá trình di chuyển này, mẹ tôi phải làm việc suốt 24
giờ trong vai trò là bác sĩ tập sự, sau đó là chính thức. Bố tôi thì
thường biến mất nhiều ngày, làm những việc vặt và thậm chí còn cải trang nữ.
Một lần, ông trở về nhà và bảo đã “nướng” chiếc xe mới của
cả nhà vào cờ bạc.
Trong nhiều ngày liên
tiếp, Lola là người lớn duy nhất ở trong ngôi nhà. Cô ấy biết
mọi thứ chi tiết trong cuộc sống của chúng tôi theo cái cách mà
bố mẹ tôi không bao giờ biết, không bao giờ có thời gian
để tâm đến. Chúng tôi dẫn bạn bè về nhà, cô ấy nghe chúng tôi
kể về trường học, chuyện trai gái và bất kì điều gì trong tâm trí
chúng tôi. Lola thậm chí còn liệt kê được tên của những cô gái mà tôi thầm
thương trộm nhớ từ lớp 6 cho đến khi vào trung học.
Khi tôi 15 tuổi,
bố đã bỏ đi. Tôi không muốn tin vào điều đó, nhưng sự thật là
ông đã bỏ rơi mẹ con tôi sau 25 năm kết hôn. Vái năm sau đó,
mẹ tôi không thể trở thành bác sĩ có giấy phép và chuyên ngành
của bà lại không đặc biệt sinh lợi cho bệnh viện. Bố thì không đưa tiền
cấp dưỡng nuôi con, và thế là tiền bạc luôn là vấn đềquan trọng của gia
đình tôi.
Mẹ tôi vẫn
giữ đầu mình tỉnh táo, mạnh mẽ để đi làm kiếm tiền nuôi chúng
tôi, nhưng đêm đến, bà sẽ chìm trong đau khổ và tuyệt vọng. Và đến
lúc này, nơi duy nhất mẹ tìm thấy sự an ủi, thoải mái đó chính
là Lola. Họ nói chuyện nhiều hơn, nhiều lúc tôi thậm chí còn thấy
họ còn cười khúc khích với nhau trong bếp. Một đêm nọ, tôi nghe tiếng
mẹ khóc, chạy vào phòng khách, tôi thấy mẹ đã gục ngã trong vòng tay
của Lola. Cô ấy đã dùng sự mềm mỏng nhất của mình để trò chuyện
với mẹ, hệt như cách cô vẫn nói với chúng tôi khi còn bé. Tôi nán lại một
lúc rồi quay trở lại phòng, sợ mình sẽ làm mẹ và Lola giật
mình.
Doods ngân nga bài hát
nào đó suốt chặng đường dài, cũng chính giai điệu ấy đã đánh thức tôi dậy.
“Hai giờ nữa”, người tài xế trấn an tôi. Tôi liếc mặt kiểm tra hũ tro
cốt của Lola rồi nhanh chóng phóng tầm mắt ra ngoài cửa sổ - đường cao tốc
MacArthur. Tôi phàn nàn: “Này, hai giờ trước anh cũng bảo “hai
giờ nữa” mà”, Doods chẳng thèm đáp trả, vẫn cứ ngân nga.
Anh ta không biết mục
đích chuyến đi của tôi. Tôi chẳng thoải mái để bộc lộ nội tâm của
mình. Tôi chẳng khá hơn bố mẹ mình là bao. Tôi đã có
thể trả tự do cho Lola, giúp cuộc sống cô ấy tôi hơn nhưng
tôi vẫn không làm thế.
Doods và tôi đi ngang
qua những vùng đất xinh đẹp. Không phải những hình ảnh bóng bẩy trong mấy
tấm thông tin du lịch mà là một vẻ đẹp rất thực, sống động. Hai bên đường
cao tốc là những dãy núi chạy song song: Zambales ở phía tây và
Sierra Madre ở phía đông. Cảnh vật trong mắt tôi giờ đây
chỉ có một màu xanh ngắt của núi rừng. Doods chỉ tôi ngọn núi
Pinatubo - nơi chịu thiệt hại nặng nề của lần phun trào núi lửa lớn
thứ hai của thế kỷ 20. Dòng dung nham đã nhấn chìm những ngôi
làng cổ đại, lấp đầy các con sông, thung lũng, quét sạch toàn
bộ hệ sinh thái. Nó tiến sâu vào chân núi của tỉnh Tarlac -
nơi ở của bố mẹ Lola, và cả mẹ tôi nữa. Rất nhiều
hồ sơ, giấy tờ của gia đình tôi đã bị mất trong chiến tranh và
giờ thì chúng đã bị chôn vùi dưới hơn 6 mét bùn lầy.
Vài năm sau khi
bố mẹ tôi ly hôn, mẹ tôi tái hôn với Ivan - một người Croatia
nhập cư quen biết với vài người bạn của mẹ. Ivan chưa học hết trung học,
từng 4 lần kết hôn và là một con bạc hiếu chiến, thích được mẹ phục
vụ tận răng. Từ khi Ivan xuất hiện, Lola đã thể hiện con người
mà chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy. Cuộc hôn nhân của mẹ và ông ta
đã có vấn đề ngay từ lúc bắt đầu và tiền bạc - đặc biệt là việc ông
ta sử dụng tiền của mẹ - là vấn đề chính. Một lần nọ, khi cuộc
cãi vã lên tới đỉnh điểm, mẹ tôi chỉ biết khóc trong tiếng gào thét
của Ivan, Lola bước đến, đứng giữa hai người. Cô ấy nhìn Ivan và gọi tên
ông ta một cách cứng rắn. Ivan nhìn vào Lola, chớp mắt rồi ngồi xuống.
Em gái tôi Inday và
tôi lúc đó đang ngồi trên sàn. Ông ta nặng hơn trăm ký và tiếng bước chân
của ông ta tôi tưởng như có thể rung lắc những bức tường. Vậy mà Lola
có thể khiến ông ta ngồi vào vị trí chỉ bằng một từ. Cảnh
tượng ấy tôi được chứng kiến vài lần nữa nhưng hầu hết thời gian, tôi cũng
thấy Lola phục vụ Ivan mà không nghi ngờ gì, hệt như mẹ tôi
yêu cầu cô làm như vậy. Nhìn thấy Lola phải phục vụ hết mình cho một
người khác, đặc biệt là gã như Ivan khiến tôi rất buồn. Nhưng nếu tôi lên
tiếng nói gì đó với mẹ, sẽ có chuyện xảy ra.
Mẹ tức giận mỗi
khi Lola ốm. Bà không muốn đối mặt với sự gián đoạn trong công việc
cũng như chi phí, và thế là bà đổ lỗi cho Lola không biết
tự chăm sóc bản thân. Đến tận những năm 1970, khi những chiếc răng của
Lola bắt đầu gãy rụng, mẹ tôi mới bắt đầu lưu ý, dù cho Lola đã nói
rất lâu trước đó. “Là do cô không đánh răng đúng cách”, mẹ tôi
vặn vẹo Lola. Tôi biết Lola cần được đến nha sĩ, ở tuổi 50,
cô ấy chưa một lần đến kiểm tra răng từ lúc ra đời. Nhưng Lola
chỉ uống những viên aspirin mỗi ngày để giảm đau, răng cô ấy
trông như đống đổ nát. Mỗi tối nhìn Lola rệu rã nhai miếng bánh
mì ở bên không đau, tôi cảm thấy đau thay cô.
Tối đó tôi và
mẹ cãi nhau để bảo vệ quan điểm khác nhau của chúng tôi.
Mẹ bảo mẹ mệt mỏi với việc chăm sóc bệnh nhân nhưng đau khổ hơn
khi nhìn thấy những đứa con của mình luôn đứng về phía Lola. Mẹ còn
dùng những từ ngữ tệ hại khác để nói về Lola nhưng
tôi chẳng quan tâm. Tôi bỏ đi một lát rồi quay lại tiếp tục tranh
luận. Tôi không ngần ngại bảo mẹ tôi giả tạo, lừa dối và nếu
mẹ chịu ngừng một phút xót xa đời mình, mẹ sẽ thấy Lola hiếm khi
ăn bởi những chiếc răng thối rữa đang hành hạ và sẽ thấy Lola đáng
được đối xử như một người bình thường chứ không phải
như một nô lệ phục tùng mọi mệnh lệnh của mẹ.
“Nô lệ”, mẹ tôi
vặn vẹo lại tôi rồi bà kết thúc cuộc tranh luận bằng quan điểm tôi
sẽ không bao giờ hiểu được mối quan hệ giữa bà và Lola. Không
bao giờ. Giọng mẹ đau đớn lắm, đến nỗi giờ đây ngồi nghĩ lại, tôi còn
cho rằng bà đau như thể khi đó có ai đấm vào dạ dày bà. Phận làm
con, sẽ rất kinh khủng nếu bạn ghét mẹ mình, nhưng tôi đã có cảm
giác ấy vào đêm đó. Nhìn mắt mẹ, tôi nghĩ bà cũng có cảm giác
như tôi.
Cuộc tranh cãi
chỉ khiến mẹ lo sợ rằng Lola đã cướp con từ tay bà và
mẹ bắt Lola phải trả giá. Mẹ cay nghiệt với Lola hơn,
mẹ bảo: “Tôi hy vọng cô vui khi thấy bọn trẻ đang ghét cay
ghét đắng tôi”. Khi chúng tôi giúp Lola việc nhà, mẹ cáu
tiết: “Cô đi ngủ được rồi đó Lola. Cô làm việc quá sức rồi, lũ
trẻ đang lo lắng cho cô kìa”. Nói rồi mẹ bắt Lola phải vào
phòng ngủ của mẹ, nghe mẹ thuyết giảng để rồi khi Lola
trở ra, đôi mắt cô ướt đẫm và sưng húp. Lola cuối cùng cũng phải xin
chúng tôi đừng giúp đỡ cô ấy nữa...
“Vì sao cô phải ở lại đây chịu mắng chửi
như thế?”Chúng tôi không giấu được tò mò, bạo gan hỏi cô...
“Vì sao cô
phải ở lại đây chịu mắng chửi như thế?”, chúng tôi không giấu được tò mò, bạo gan hỏi
cô. “Ai sẽ nấu ăn cho các con?”, câu trả lời tuy
nhẹ nhàng của cô nhưng nó hàm ý rằng nếu không có cô thì chẳng có ai làm
mọi việc trong nhà, chẳng có ai chăm sóc cho mẹ con chúng tôi.
Cũng với câu
hỏi ấy nhưng một lần khác, cô lại trả lời: “Cô biết đi đâu
bây giờ...”. Câu trả lời này dường như tiệm cận gần hơn với
thực tế đau lòng của Lola. Đến Mỹ là một việc điên rồ, trước khi
chúng tôi kịp thở dài thì một thập kỷ đã trôi qua. Chúng tôi quay lại
nơi cũ, thập kỷ thứ hai đã kết thúc. Tóc Lola đã rụng dần và bạc đi
nhiều lắm. Cô biết được những người họ hàng ở quê nhà không nhận
được sự giúp đỡ từ cô như lời hứa hẹn ban đầu và
tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với cô. Thế nên với cô,
trở về quê nhà là một sự xấu hổ, tủi nhục.
Mà không về quê
nhà, cô cũng chẳng biết đi đâu ở đất Mỹ này thật. Cô chẳng quen
biết ai đây lại không có phương tiện để di chuyển. Điện thoại cũng chẳng
biết dùng. Những thứ hiện đại như ATM, máy bán hàng tự động hay
bất cứ thứ gì có bàn phím sẽ khiến cô đau đầu. Giao tiếp với
những người nói quá nhanh sẽ khiến cô ú ớ, không biết nói gì và vốn
tiếng Anh bập bẹ của cô cũng khiến người khác rơi vào trạng thái tương tự.
Cô không biết sắp xếp một cuộc hẹn, chuyến đi chơi, điền giấy tờ hay gọi
thức ăn... tất cả đều phải có sự giúp đỡ của chúng tôi.
Tôi cho Lola một
thẻ ATM và dạy cô ấy cách sử dụng. Lần đầu, rất thành công nhưng
lần thứ hai, cô ấy bị rối, đâm ra hoảng loạn, không bao
giờ dám thử lại nữa. Tuy vậy, Lola vẫn giữ thẻ ATM bên mình
bởi cô ấy xem nó như một món quà quý giá mà tôi tặng. Tôi cũng
cố gắng dạy cô ấy lái xe. Dĩ nhiên cô xua tay từ chối nhưng tôi
vẫn nhấc bổng cô lên mang đến xe hơi, đặt cô vào ghế lái. Lola từ vui
vẻ đến sợ hãi, rồi nhanh chóng tháo chạy khỏi chiếc xe trước khi tôi
kịp nói lời nào. Tôi cũng cố gắng vài lần sau đó bởi tôi cho rằng biết lái
xe sẽ thay đổi cuộc đời Lola. Cô ấy có thể đến nhiều nơi, và nếu
không thể chịu đựng mẹ tôi nữa, cô ấy có thể lái xe đi mãi
mãi.
Bốn làn xe
giờ chỉ còn hai, vỉa hè giờ chỉ còn đá sỏi. Mấy chiếc xe ba
bánh giờ đi xen lẫn với xe hơi tạo nên một sự hỗn độn rất đỗi bình
thường ở đất nước này. À, còn vài con trâu kéo mớ tre trên đường
nữa. Vài con chó hay dê gì đấy thậm chí còn ngang nhiên đi lại trước mũi xe
tải, trông rất thong dong... Tôi lôi bản đồ, tìm đường đến làng Mayantoc - điểm
đến của chúng tôi. Tôi gõ gõ cái hộp nhựa, hối hận vì mình không mua một cái
bình tốt hơn, bằng sứ hay gỗ gì đấy. Không biết mọi người nghĩ gì
nữa. Tôi nghe nói chỉ còn mỗi người chị em gì đấy của Lola - bà
Gregoria, 98 tuổi và trí nhớ kém lắm nhưng mỗi khi nghe đến tên Lola, bà
lại bật khóc mà lại chẳng biết vì sao mình khóc.
Trước khi đi, tôi may
mắn liên lạc được với một trong những người cháu của Lola. Cô ấy đã lên
kế hoạch cho lễ tưởng niệm của Lola ở Công viên Tưởng niệm
Mayantoc Eternal Bliss. Đã 5 năm kể từ ngày Lola qua đời nhưng tôi
vẫn chưa nói lời tạm biệt cuối cùng - điều mà tôi biết chắc chắn sẽ xảy
ra. Cả ngày tôi buồn bã nhưng không thể để Doods thấy mình
khóc. Hơn cả sự xấu hổ về cách gia đình tôi đối xử với
Lola, hơn cả những lo lắng của tôi về việc họ hàng của
Lola ở Mayantoc sẽ đối xử với tôi thế nào, tôi cảm
thấy nặng nề khi mất cô ấy, như thể cô ấy chỉ vừa
qua đời một ngày trước đó.
Doods đưa tôi đến cao
tốc Romulo để đến nhà ông tôi - trung úy Tom. Hai làn xe thành một, những
viên sỏi giờ chỉ là cát bụi. Con đường mòn chạy dọc theo sông
Camiling, nơi có những ngôi nhà trẻ nằm sát bên, và rồi những ngọn đồi
xanh rì hòa lẫn với ánh nắng vàng vọt đã hiện ra phía trước. Đó là nơi
mẹ tôi từng sống.
Đám tang của mẹ, tôi
hết lời ca tụng bà. Những lời tôi nói là thật. Mẹ tôi đã rất dũng cảm và
mạnh mẽ. Bà đã làm mọi thứ tốt nhất trong khả năng. Bà trông rất rạng
rỡ khi hạnh phúc. Bà tự hào về những đứa con của mình và cho
chúng tôi một ngôi nhà thực sự ở Salem, Oregon - một
nơi ở cố định mà chúng tôi chưa bao giờ có. Tôiước mình có
thể nói cảm ơn mẹ một lần. Tôi biết, tất cả chúng tôi yêu
mẹ.
Tôi không nói
về Lola trong đám tang cũng như không đề cập đến Lola khi
tôi ở cùng bà vào những năm tháng cuối đời của bà. Yêu mẹ đòi
hỏi tôi phải có một tinh thần thép. Đó là cách duy nhất để tôi và
mẹ có thể có mối quan hệ mẹ và con trai thực sự - điều
mà tôi rất muốn, đặc biệt là khi sức khỏe mẹ xuống dốc vào khoảng giữa
những năm 90. Tiểu đường, ung thư vú, bệnh bạch cầu cấp tính, tế bào ung thư lớn
mạnh trong máu, trong tủy xương. Mẹ từ người phụ nữ mạnh
mẽ trở nên mong manh yếu ớt chỉ sau một đêm.
Sau cuộc tranh cãi
đỉnh điểm về Lola vào đêm đó, tôi hầu như tránh
về nhà. Ở tuổi 23, tôi chuyển đến Seattle sinh sống. Thỉnh
thoảng về thăm, tôi thấy có sự thay đổi. Mẹ vẫn là mẹ, nhưng
không phải sự tàn nhẫn trước đó. Mẹ đã mua cho Lola bộ răng
giả tốt, cho Lola một phòng ngủ. Cố gắng để Lola có
thể định cư ở Mỹ một cách hợp pháp. Đó là một quá trình dài
nhưng Lola đã trở thành công dân Mỹ vào tháng 10/1998 - 4 tháng sau
khi mẹ tôi nhận được chẩn đoán bệnh bạch cầu. Và mẹ tôi sống được hơn
1 năm sau đó.
Trong suốt thời gian
đó, mẹ và Ivan (người chồng sau của mẹ) nhiều lần du lịch đến thành
phố Lincoln ở bờ biển Oregon, đôi khi Lola cũng được đi
cùng. Lola yêu biển, được đến biển, quay trở về những hòn đảo
là ước mơ của Lola. Tôi biết Lola chẳng thể nào hạnh phúc hơn
khi mẹ tôi dần thoải mái hơn với cô. Một buổi chiều bên bờ biển hay
15 phút trong bếp cùng mẹ nhớ lại những ngày tháng cũ ở quê
nhà, Lola dường như đã quên hết những năm tháng đau khổ của
cô ấy.
Trước khi qua đời,
mẹ đưa tôi hai quyển nhật kí bà viết về cuộc đời mình. Về những
năm tháng học y khoa, cho đến khi đến Mỹ, trở thành bác sĩ thực tập...
Mẹ viết rất chi tiết về từng đứa con và cảm giác tự hào, yêu
thương chúng tôi như thế nào. Mẹ đã hy sinh hết mình cho hai ông
chồng, cố gắng nắm bắt họ như những nhân vật phức tạp trong câu
chuyện cuộc đời mình. Chúng tôi là những nhân vật xuất hiện có chủ đích,
còn Lola là một sự ngẫu nhiên. Lola được đề cập đến như là một
nhân vật phụ xuất hiện trong câu chuyện của ai đó, như: “Lola cùng
con trai yêu dấu của mẹ Alex đến ngôi trường mới vào sáng nay. Mẹ hy
vọng con sẽ nhanh chóng làm quen và không còn sợ hãi nếu phải di
chuyển nữa...”. Hình như có hai trang về tôi nhưng lại không
thấy đề cập đến Lola.
Một ngày trước khi
mẹ mất, một vị linh mục đã đến thực hiện những nghi thức cuối cùng.
Khi được hỏi muốn tha thứ hay được tha thứ điều gì, mẹ nhìn khắp
phòng với đôi mắt nặng trĩu mà chẳng nói gì. Mẹ chẳng nhìn Lola rồi
mở bàn tay đặt lên đầu mình. Mẹ chẳng nói gì nữa cả.
Lola trên trang
bìa ấn phẩm của tạp chí The Atlantic số tháng 6/2017 (Ảnh:
theatlantic)
Lola
đến ở với tôi khi cô đã được 75 tuổi. Lúc đó tôi đã kết hôn, có hai
cô con gái, sống trong một ngôi nhà ấm cúng. Ở đây Lola muốn làm
gì cũng được, chẳng còn phải phục vụ chúng tôi như trước. Đó là lần
đầu tiên trong đời Lola và tôi biết để được như thế, cô đã rất đau
khổ suốt mấy mươi năm qua.
Ở cùng Lola,
cô ấy khiến tôi khó chịu vài thứ, chẳng hạn như cô ấy luôn bảo
tôi phải mặc áo len để không lạnh (dù khi ấy tôi đã 40 tuổi). Cô liên
tục than thở về bố tôi và Ivan, rằng bố tôi là một gã lười
biếng, Ivan là một con đỉa bám lấy mẹ tôi. Cô ấy kiểm tra thùng rác
để đảm bảo chúng tôi không vứt đi những thứ còn dùng được. Cô ấy
rửa và dùng lại khăn giấy cho đến khi chúng rã ra trong tay...
Cô ấy tích cực
nấu bữa sáng dù cho chúng tôi phải vắt giò lên cổ chạy cho kịp
giờ vào mỗi sáng. Cô ấy dọn giường, giặt quần áo, lau dọn nhà cửa.
Ban đầu tôi nhẹ nhàng bảo: “Lola, cô không cần phải làm thế”,
“Lola, chúng con sẽ tự làm”, và đến khi tôi quá bực: “Lola,
đó là việc của hai đứa nhỏ”. Cô ấy bảo được rồi và vẫn tiếp tục
làm. Cô ấy thậm chí còn khiến tôi tức điên lên khi đứng ăn trong nhà bếp
hay dọn dẹp mỗi khi tôi bước vào phòng.
Sau vài tháng
như thế, tôi biết mình phải nói chuyện với Lola: “Con không phải
bố. Cô không phải nô lệ ở đây”. Nghe những lời ấy, Lola
cố gắng hết sức để kềm nén sự xúc động. Tôi nhẹ nhàng hôn
lên trán cô rồi bảo: “Đây là nhà của cô. Cô ở đây không phải
để phục vụ chúng con. Cô phải nghỉ ngơi, được chứ?”. Cô
bảo được rồi và vẫn quay lại dọn dẹp. Thực tế thì cô ấy không biết
mình phải nghỉ ngơi bằng cách nào vì gần như cả đời việc của cô
là phục vụ. Thế rồi tôi phải tự khuyên chính mình, phải
thả lỏng. Nếu cô ấy muốn nấu bữa tối, hãy để cô ấy nấu rồi
cảm ơn và dọn dẹp. Tôi phải liên tục nhắc nhở bản thân mình:
để cô ấy được thoải mái.
Một đêm về nhà
muộn, tôi thấy Lola đang ngồi chơi đố chữ, chân gác lên ghế, TV thì bật.
Một tách trà đặt sát bên. Cô ấy nở nụ cười tươi và sáng choang
(nhờ hàm răng giả) rồi quay trở lại với câu đố. Có tiến bộ đấy!
Cô ấy trồng hoa
hồng, tulip và vài loại phong lan nào đó ở sân sau. Cô ấy dành
cả buổi chiều để chăm sóc chúng. Cô ấy đã biết thăm hỏi hàng
xóm, nhưng ở tuổi 80, khi bệnh viêm khớp tồi tệ hơn, cô ấy
phải đi lại bằng gậy. Đi qua phòng ngủ của Lola, tôi thường nghe thấy
những bài hát dân ca Philippine phát ra từ đó. Một cuộn băng lặp đi lặp
lại. Tôi thậm chí còn biết cô ấy đã gửi tất cả tiền mà tôi và
vợ cho cô ấy - 200 USD một tuần - về cho những người
họ hàng ở quê nhà.
Một chiều nọ, tôi thấy
cô ngồi ở sân sau, nhìn chằm chằm vào bức ảnh ai
đó ở quê. “Cô muốn về nhà sao Lola?”, tôi tò
mò. Tay mân mê, vuốt nhẹ bức ảnh, Lola khẽ khàng gật đầu.
Vậy là sau sinh nhật
lần thứ 83 của Lola, tôi mua vé cho cô ấy về Philippine. Một
tháng sau đó tôi đến để đón cô quay lại Mỹ - trong trường hợp
cô ấy muốn thế. Thật ra, chuyến đi này còn là dịp để Lola xem sau
nhiều năm, cô có còn cảm giác thân thuộc như xưa hay không. Rồi
cô ấy đã tìm thấy câu trả lời: “Mọi thứ không còn
như trước”. Trang trại cũ biến mất, ngôi nhà chẳng còn,
bố mẹ, hầu hết anh chị em đã qua đời. Những người bạn ấu
thơ còn sống thì trở nên xa lạ. Gặp lại họ thật tuyệt nhưng mọi
thứ không còn như xưa. Cô ấy vẫn muốn trải qua những năm tháng
cuối đời ở đây nhưng giờ thì chưa sẵn sàng. “Về với
khu vườn của cô thôi”, tôi bảo, “Ừ, về nhà thôi”, Lola
ngậm ngùi đáp lời.
Lola đã chăm sóc hai
cô con gái của tôi hệt như cách chăm sóc anh chị em tôi khi bé. Sau
giờ tụi nhỏ tan học, cô ấy sẽ nghe lũ
trẻ kể chuyện và lao vào bếp nấu nướng thứ gì đấy cho chúng ăn.
Không giống như vợ chồng tôi, Lola rất thích mỗi phút giây của những
sự kiện, buổi biểu diễn ở trường. Dù không thể tham
dự hết nhưng lần nào có mặt, Lola cũng được ngồi ở hàng
ghế đầu.
Đi chơi đâu chúng tôi
cũng dắt cô ấy theo và không chỉ những lúc đi chơi đâu, trông Lola
giờ đây thực sự hạnh phúc.
Lola thậm chí còn
tự học đọc chữ nữa. Nhiều năm liền, bằng cách nào đó Lola đã học cách
phát âm chữ cái, giải những câu đố về từ vựng. Phòng
cô ấy đầy những câu đố như thế. Mỗi ngày, Lola xem tin tức,
cố gắng nghe và nhận biết từ ngữ. Cô tìm hiểu thêm trên mấy
tờ bào và cố tìm ra ý nghĩa của chúng.
Suốt 12 năm Lola
sống ở nhà chúng tôi, tôi có rất nhiều cơ hội để hỏi Lola
về bản thân cô ấy, để cô ấy có thể kể về bản
thân, về cuộc đời mình - điều tôi luôn muốn biết từ khi còn bé. “Lola,
có bao giờ cô phải lòng ai đó chưa?”, tôi không giấu được sự tò
mò. Lola cười rồi kể về chuyện tình của cô ấy khi mới 15 tuổi.
Đó là một anh chàng điển trai tên Pedro ở nông trại gần nhà cô khi
trước. Họ thu hoạch lúa cùng nhau suốt nhiều tháng liền rồi cô nảy sinh
tình cảm. “Cô thích anh ta”, cô chậm rãi trả lời và rồi là một
khoảng lặng... “Sau đó thì anh ta chuyển đi...”.
Cũng suốt những năm đó,
tôi hiểu được rằng Lola cũng muốn điên lên khi mẹ tôi thô lỗ suốt
những năm tháng sống cùng nhưng cô ấy vẫn rất nhớ mẹ tôi.
Thỉnh thoảng, khi Lola
còn trẻ, cảm giác cô đơn đã khiến cô ấy không ít lần rơi lệ. Tôi biết
cô ấy mong mình có được tấm chồng nhưng cô bảo với tôi rằng nhìn thấy
những ông chồng của mẹ thì cô lại thấy cô đơn cũng không phải là điều tồi
tệ. Cô ấy chẳng nhớ bất kì ai trong hai người chồng của mẹ. Có
lẽ cuộc sống của cô ấy sẽ khá hơn nếu cô ở lại
Mayantoc, kết hôn rồi lập gia đình như chị em cô ấy. Nhưng nó
cũng có thể tệ hơn, ai có thể biết được.
Không ai trong chúng
tôi chuẩn bị cho cái chết quá đột ngột của Lola.
Cô ấy lên cơn đau
tim khi đang trong nhà bếp nấu bữa tối, còn tôi thì chạy ra ngoài làm vài việc
vặt. Khi trở lại, cô ấy đã đau một lúc lâu rồi. Một vài giờ sau
đó ở bệnh viện, trước khi tôi có thể chấp nhận mọi chuyện đang
xảy ra, cô ấy đã ra đi - lúc 10 giờ 56 phút tối ngày 7/11. Tâm trí
hoang mang, tôi chẳng nhớ được gì nhưng bọn trẻ đã bảo tôi rằng, Lola
chết cùng ngày, cùng tháng với mẹ tôi, cách nhau 12 năm.
Vậy
là ở tuổi 86, Lola đã ra đi. Tôi vẫn còn có thể nhìn cô ấy
trên chiếc giường bệnh. Tôi nhớ mình đã nhìn vào những viên thuốc
kế bên người phụ nữ nhỏ hơn cả một đứa trẻ này và
nghĩ về cuộc đời của cô ấy. Cô ấy đã từ bỏ tất
cả những ham muốn riêng để phục vụ, cống hiến hết mình cho chúng tôi,
một sự trung thành tuyệt vời. Cô ấy đã trở thành một nhân vật
được kính trọng trong gia đình đông đúc của chúng tôi.
Tôi mất vài tháng
để dọn dẹp những vật dụng của cô ấy trên tầng gác mái. Tôi tìm thấy
những công thức nấu ăn cô cắt ra từ mấy quyển tạp chí vào những năm 1970 -
thời điểm cô ấy bắt đầu học đọc. Những quyển album có hình mẹ tôi,
giải thưởng của anh chị em chúng tôi - những thứ chúng tôi thường vứt
đi còn cô ấy thì cất giữ. Tim tôi như vỡ vụn khi thấy những
tờ giấy báo đã vàng úa mà tôi đã viết từ rất lâu rồi. Lúc đó
cô ấy chẳng biết đọc nhưng vẫn khư khư cất giữ chúng
như bảo vật gia đình.
Chiếc xe của Doods
chở tôi đến một căn nhà nhỏ, xung quanh là ruộng lúa xanh ngắt một màu
như kéo dài bất tận. Xe đỗ xịch, tôi chưa kịp ra khỏi xe thì mọi
người đã kéo nhau ra khỏi nhà ngó nghiêng. Doods bỏ dây an toàn,
ngả ghế, đánh một giấc sau chuyến đi dài. Tôi quẩy túi lên vai, hít một
hơi thật sâu rồi mở cửa bước ra.
“Đường này”, giọng nói dịu dàng vang lên, dẫn tôi đi vào
căn nhà ấy. Có khoảng 20 người, già, trẻ có đủ nhưng hầu hết là
đã khá lớn tuổi. “Lola đâu”, một giọng nói vang lên. Tôi chưa
kịp định thần thì trong phút chốc một phụ nữ trung niên
nở nụ cười, là Ebia - cháu gái Lola. Thì ra đây là nhà cô ấy.
Cô ấy lại ôm tôi, rồi hỏi lại: “Lola đâu?”. Tôi mở túi,
đưa chiếc hộp nhựa cho cô ấy. Trịnh trọng cầm chiếc hộp trên tay,
cô ấy nhìn quanh rồi lại hỏi: “Lola đâu?”. Có lẽ mọi
người ở đây không quen với việc hỏa táng người quá cố. Tôi đã không
mang tro cốt của Lola đến sớm hơn vì tôi không chắc mọi người ở đây
vẫn còn quan tâm đến cô ấy.
Nhưng rồi Ebia vẫn ôm
khư khư chiếc hộp trong lòng, chậm rãi cúi xuống, đặt trán lên chiếc
hộp và bắt đầu khóc. Vai cô ấy rung lên từng đợt và tiếng khóc ngày càng
thảm thiết hơn, hệt như tiếng khóc của Lola lúc
bị bố mẹ tôi mắng chửi mà tôi từng nghe vào những năm còn bé.
Tôi chưa kịp tiến đến
an ủi Ebia thì một người phụ nữ đã vòng tay ôm Ebia, rồi
cả hai bắt đầu khóc. Và rồi những người còn lại cũng khóc theo suốt 10
phút sau đó. Thẫn thờ nhìn khung cảnh đau thương quanh đây, tôi không nhận
ra, nước mắt mình cũng đã rơi từ khi nào.
Nhìn vào chiếc túi
trống rỗng mà trước đó đã đựng tro cốt Lola, tôi biết mình đang mang cô ấy
về đúng nơi thuộc về.
Alex Tizon (sinh năm
1959) là một nhà báo người Mỹ gốc Philippine. Ông từng được trao giải Pulitzer
- một giải thưởng của Mỹ, trao cho nhiều lĩnh vực, trong đó quan trọng hơn cả
là về báo chí và văn học. Đặc biệt về báo chí, Pulitzer được xem như một trong
những giải danh giá nhất. Ông còn là tác giả cuốn sách Big Little Man: In
Search of My Asian Self .
Câu chuyện về cuộc đời
của Lola (tên thật Eudcia Tomas Pulido) là tác phẩm cuối cùng trong cuộc đời
Alex. Với tựa đề gốc My Family's Slave, tác phẩm sẽ được xuất bản trong ấn phẩm
tháng 6/2017 của tạp chí The Atlantic.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét