.

.

a

Hoa đào nở, chim én về, mùa xuân lại đến. Chúc quý thầy cô và anh chị em đồng môn năm mới Giáp Thìn : - nghìn sự như ý, vạn sự như mơ, triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc.
THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ, ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU - MỘT NĂM MỚI AN KHANG THỊNH VƯỢNG - VẠN SỰ NHƯ Ý

02 tháng 6 2018

Người anh hùng thầm lặng đã giúp thế giới tránh khỏi cuộc chiến tranh hạt nhân



Cách đây 56 năm, thế giới suýt bị hủy diệt vì chiến tranh hạt nhân giữa Mỹ và Liên Xô trong 13 ngày cân não căng thẳng từ cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. May mắn thay, có một người đã cứu vãn khỏi tình thế nguy hiểm ấy. Đó là người anh hùng thầm lặng Vasili Alexandrovich Arkhipov.
Để hiểu tầm quan trọng của quyết định ấy, chúng ta cần quay trở lại cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba.
Mồi lửa nhen nhóm
Tháng 5/1962, Tổng Bí thư Liên Xô Nikita Khrushchev và Chủ tịch Cuba Fidel Castro đã đạt được thỏa thuận “bí mật” cho phép Liên Xô bắt đầu xây dựng các trận địa tên lửa ở Cuba, trong đó có tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa mang đầu đạn hạt nhân.
Năm 1962, Liên Xô bắt đầu xây dựng lắp đặt tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân tại Cuba. (Ảnh: http://www.todayifoundout.com)
Vào thời điểm này, Mỹ có tên lửa hạt nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ và Ý có thể tấn công Moscow trong vòng 16 phút sau khi được phóng. Liên Xô khi ấy dù có rất nhiều vũ khí hạt nhân hoàn toàn có khả năng hủy diệt các mục tiêu của đồng minh Mỹ trên khắp châu Âu, nhưng lại không có khả năng tiêu diệt các mục tiêu ở Mỹ. Vì vậy, Liên Xô cần phải có vũ khí hạt nhân ở Cuba, để lấy lại sự cân bằng trong Chiến tranh Lạnh.
Từ một bức ảnh do thám
Mùa thu năm 1962, một chiếc máy bay U-2 của Mỹ bay qua Cuba để tìm cách xác nhận thông tin tình báo về các trận địa tên lửa của Liên Xô ở San Cristobal (Cuba).
Ngày 14/10/1962, chiếc U-2 trở lại Mỹ đem theo hình ảnh xác thực các vị trí Liên Xô bí mật lắp đặt tên lửa đạn đạo tầm xa và tầm trung mang đầu đạn hạt nhân, cách bờ biển Florida của Mỹ chỉ khoảng 90 dặm. Một ngày sau, những bức ảnh này được đặt lên bàn làm việc của Tổng thống J.F. Kennedy.
Ngày 15/10/1962 được coi là ngày khởi đầu cho Cuộc khủng hoảng tên lửa hạt nhân nghiêm trọng nhất trong lịch sử, kéo dài 13 ngày vào đúng thời điểm cao trào trong Chiến tranh Lạnh, khiến tình hình thế giới trở nên vô cùng căng thẳng trước nguy cơ nổ ra một cuộc chiến tranh hạt nhân.
Ngày 22/10, Tổng thống Kennedy tuyên bố: “Vũ khí hạt nhân tên lửa đạn đạo có sức tàn phá khủng khiếp, bất kỳ việc triển khai đột ngột nào cũng có thể được coi là mối đe dọa nhất định đối với hòa bình thế giới … Tên lửa chiến lược của chúng ta chưa bao giờ được chuyển tới lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào dưới lớp vỏ choàng bí mật và dối trá”.
Hải quân Mỹ thực hiện chiến dịch kiểm soát nghiêm ngặt các vũ khí vận chuyển vào Cuba bằng đường biển. (Ảnh: learning-history.com)
Tổng thống Kennedy cũng công bố những hành động mà chính phủ Mỹ thực hiện để đáp trả việc triển khai vũ khí hạt nhân của Liên Xô tại Cuba, bao gồm “một chiến dịch kiểm soát nghiêm ngặt” tất cả các thiết bị quân sự chuyển tới Cuba bằng đường biển. Thuật ngữ “kiểm soát” để nhằm chỉ hành động “phong tỏa” của hải quân Mỹ, chặn mọi ngả đường dẫn vào bờ biển Cuba.
Ngày 24/10, Tổng thống Kennedy ra lệnh triển khai hàng trăm tàu chiến, bao gồm 4 tàu sân bay và nhiều máy bay tuần tra, máy bay săn tàu ngầm để phong tỏa bờ biển Cuba, đồng thời thông báo cho phía Liên Xô rằng, Mỹ sẽ thả bom chìm cảnh cáo nếu họ xác định đúng các tàu ngầm của Liên Xô và buộc tàu ngầm phải trồi lên mặt nước và quay trở về.
Có một điều mà Tổng thống Kennedy không biết được rằng, thời điểm đó Tổng bí thư Khrushchev đã gửi một biên đội tàu ngầm có trang bị vũ khí hạt nhân đang trên đường tới Cuba. Tất cả các tàu ngầm này đều được quyền tự quyết khai hỏa phóng ngư lôi hạt nhân nếu họ mất liên lạc với Moscow.
Đòn cân não
Ngày 1/10/1962, một đội gồm bốn tàu ngầm tấn công hạt nhân Foxtrot diesel di chuyển từ căn cứ Bắc Cực, gồm chiến hạm B-59, và ba tàu chị em, B-36, B-4 và B-130 thuộc Lữ đoàn tàu ngầm số 69 bí mật tìm đường băng qua hàng rào phong tỏa của tàu chiến Mỹ để tiếp cận Cuba.
Chỉ huy của nhóm tàu là thuyền trưởng Vasili Alexandrovich Arkhipov đi trên chiếc B-59 nhưng không chỉ huy nó. Thuyền trưởng của chiếc B-59 là Valentin Grigorievitch Savitsky. Ba trong bốn chiếc tàu ngầm ấy, chỉ cần sự đồng ý của chỉ huy tàu và sĩ quan chính trị là có quyền khởi động “vũ khí đặc biệt” trên tàu.
Tuy nhiên, trên chiếc B-59, cần phải có sự đồng ý của chỉ huy tàu, sĩ quan chính trị và “thuyền trưởng thứ hai”, Vasili Arkhipov. Thêm nữa, gần như không có thủy thủ nào biết trên tàu của họ mang theo một quả ngư lôi đầu đạn hạt nhân, có sức mạnh hủy diệt tương đương với quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima.
Không có thủy thủ nào trên B-59 biết trên tàu có vũ khí hạt nhân có sức hủy diệt như quả bom tại Hiroshima. (Ảnh: dailystar.co.uk)
Ngày 27/10/1962, trên hải phận quốc tế, lực lượng đặc nhiệm của tàu khu trục và máy bay tuần tra Mỹ đã phát hiện tàu ngầm B-59 khi nó đang nổi lên mặt nước để sạc ắc quy. Để tránh sự truy lùng của máy bay Mỹ, B-59 buộc phải lặn sâu xuống nước khi ắc quy chưa được nạp đầy.
Một cuộc vây lùng tàu B-59 với sự tham gia của 11 tàu khu trục Mỹ bắt đầu chiến dịch “quấy rối” bằng sóng siêu âm và thả bom chìm xung quanh chiếc B-59, như một dấu hiệu cho thấy đối phương muốn nó phải trồi lên mặt nước.
Lẩn trốn trong lòng đại dương, chịu áp lực bởi những quả bom chìm khiến tàu B-56 rung lắc dữ dội, bên trong nó là một trận chiến nảy lửa của đội ngũ cấp cao chỉ huy tàu, cùng thủy thủ đoàn hoàn toàn kiệt quệ vì căng thẳng và mệt mỏi.
Quan ngại là người Mỹ không hề biết mục tiêu họ đang truy kích dữ dội ấy là một tàu ngầm có mang theo đầu đạn hạt nhân và chỉ huy tàu B-59 khi ấy đang lưỡng lự: Liệu có khai hỏa?
Căng thẳng tột cùng
Trước sự bao vây của các chiến hạm Mỹ, tính tới thời điểm này, tàu B-59 đã lặn sâu dưới biển gần 4 tuần và gần 1 tuần mất liên lạc với Moscow, các thành viên trên tàu hầu như kiệt sức và không nhận thức được hoàn cảnh.
Điều quan trọng là B-59 được thiết kế để chịu được điều kiện băng giá của Bắc cực nhưng giờ lại phải chịu nhiệt độ quá nóng ở Đại Tây Dương. Vì hệ thống làm mát không được thiết kế cho vùng biển nhiệt đới nên khi nhiệt độ bên ngoài tàu lên tới hơn 30 độ C thì nhiệt độ trong tàu tăng tới 45 đến 60 độ C, mức CO2 đã trở nên nguy hiểm khiến nhiều thủy thủ bị ngất xỉu.
Độ ẩm cũng là một vấn đề nghiêm trọng, khẩu phần ăn bị cắt giảm và mỗi người chỉ được phép uống một ly nước mỗi ngày. Thủy thủ Anatoly Andreyev ghi trong nhật ký: “Ở đây, tình hình rất nghiêm trọng và ngày càng tồi tệ hơn, nhiều người bị bệnh, một số bị ngất xỉu, số khác bị phù nề. Không ai ngủ được trong cái nóng khủng khiếp và không khí ngột ngạt này. Hầu hết mọi người bị sốt phát ban”.
Việc chỉ huy tàu Savitsky ra lệnh cho B-59 lặn sâu hơn dưới đại dương để lẩn trốn khỏi sự truy lùng của tàu Mỹ đồng nghĩa với việc mọi liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Họ không thể nghe được bất cứ phương tiện truyền thông nào của Mỹ, cũng như không nhận được bất cứ liên lạc nào từ Moscow.
Lần hiếm hoi B-59 nổi lên sạc ắc quy nhưng đã bị máy bay Mỹ phát hiện nên buộc phải lặn sâu xuống biển. (Ảnh: learning-history.com)
Thời điểm ấy, họ không biết được rằng hải quân Mỹ đã thông báo cho phía Liên Xô biết “Thủ tục xác định vị trí và Nhận dạng Tàu ngầm”, rằng phía Mỹ sẽ thả bom chìm loại nhỏ để báo hiệu cho tàu ngầm Liên Xô biết họ đã bị phát hiện và buộc phải nổi lên mặt nước trước khi Mỹ sử dụng loại bom chìm uy lực hơn. Thật không may, Moscow không thể truyền đạt thông tin này cho chiếc B-59 do nó lặn quá sâu dưới nước.
Sức công phá của bom chìm dù nhỏ nhưng vẫn làm hỏng cột ăng ten vô tuyến khiến thủy thủ tàu B-59 không liên lạc được với sở chỉ huy. Bởi vậy, các sĩ quan trên tàu ngầm không hề biết đến “Thủ tục xác định vị trí và nhận dạng tàu ngầm” mà Mỹ đã thông báo cho phía Liên Xô dẫn đến việc Mỹ quyết định gửi tín hiệu cảnh báo mạnh mẽ hơn bằng cách sử dụng loại bom uy lực hơn.
Vadim Pavlovich Orlov, một sĩ quan tình báo truyền thông trên tàu B-59 đã mô tả về bom chìm nổ ngay bên cạnh thân tàu như sau: “Nó giống như bạn đang ngồi trong một thùng kim loại, mà ai đó liên tục nổ mìn bằng búa tạ”.
Trong không gian chật hẹp với nhiệt độ tăng lên tới mức cực điểm 60 độ C, những thành viên trên tàu B-59 đã trải qua những thời khắc không khác gì địa ngục. Anatoly Andreev viết trong thư gửi cho vợ: “Bốn ngày qua, bọn anh lặn sâu dưới nước…. Tưởng chừng như đầu nổ tung vì không khí ngột ngạt trên tàu…. Hôm nay, ba thủy thủ bị ngất xỉu vì quá nóng… Máy lọc không khí chạy ì ạch, hàm lượng CO2 đang gia tăng và trữ lượng điện đang giảm xuống mức thấp nhất. Những thủy thủ hết ca trực thì ngồi yên bất động, mắt nhìn vào hư không… Nhiệt độ trên tàu lúc nào cũng duy trì liên tục trên 50 độ C”.
Hải quân Mỹ thả bom chìm buộc tàu ngầm B-59 phải nổi lên mặt nước. (Ảnh: hague6185.wordpress.com)
Lúc này, sự căng thẳng bao trùm toàn bộ thành viên. Andreyev viết về chỉ tàu Savitsky như sau: “Điều tồi tệ nhất là tinh thần của chỉ huy tàu căng như dây đàn. Ông la mắng mọi người và hành hạ bản thân mà không nhận ra rằng nên tiết kiệm sức lực của chính mình và của những thành viên khác, nếu không sẽ không thể kéo dài lâu. Ông ấy trở nên hoang tưởng, lo sợ mọi thứ và điều đáng ngại nhất là những hành động bộc phát của ông.”
Chỉ huy tàu Valentin Savitsky đang ở trong tâm trạng lo lắng, kiệt sức, thiếu thông tin trong suốt chuyến đi kéo dài cả tháng trời dưới biển. Ông cho rằng trên mặt đất đã xảy ra chiến tranh hạt nhân và nghĩ tới khả năng phóng ngư lôi đầu đạn hạt nhân. Theo chỉ thị từ trước, trong trường hợp mất liên lạc với mặt đất, tàu ngầm có quyền phóng ngư lôi mang theo tên lửa hạt nhân nếu cả ba người có thẩm quyền trên tàu đều đồng ý.
Sau nhiều giờ bị tra tấn vì bom chìm và nguồn oxy dần cạn kiệt, chỉ huy tàu Savitsky “hoàn toàn kiệt sức” và “trở nên giận dữ” sau khi không liên lạc được với Moscow. Savitsky hét: “Có lẽ cuộc chiến đã bắt đầu ở trên đó, trong khi chúng ta đang nhào lộn ở đây! Chúng ta sẽ nổ chúng ngay bây giờ! Chúng ta sẽ chết, nhưng chúng ta sẽ đánh chìm tất cả – chúng ta sẽ không làm ô nhục Hải quân!”.
Và ông ra lệnh cho thứ “vũ khí đặc biệt” sẵn sàng vào bệ phóng hướng tới mục tiêu USS Randolph – tàu sân bay khổng lồ đang dẫn đầu lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ vây lùng B-59.
Với cái đầu nóng của mình, hẳn thứ vũ khí đặc biệt ấy theo lệnh của Savitsky sẽ dễ dàng làm bốc hơi tàu sân bay Mỹ cùng các tàu khu trục đang hộ tống nó, và Mỹ có thể phản ứng lại bằng bom hạt nhân phá tàu ngầm. Điều đó có thể, như nhà văn Nga nổi tiếng Svetlana Savranskaya viết, sẽ “khởi đầu một chuỗi những sự phát sinh vô ý, dẫn đến hậu quả thảm khốc cho loài người”.
Sĩ quan chính trị Ivan Semonovich Maslennikov trên chiếc B-59 cũng đồng tình với chỉ huy tàu Savitsky. 11 tàu khu trục của Mỹ đang lởn vởn gần đó không ngờ rằng suýt chút nữa, chúng trở thành mục tiêu của “thứ vũ khí hủy diệt” trên con tàu B-59 cùng quẫn ấy.
Người hùng xuất hiện
May mắn thay, một người thứ ba đã mạnh mẽ phủ quyết quyền khai hỏa của chỉ huy tàu Savitsky và sĩ quan chính trị Maslennikov. Đó chính là vị chỉ huy thứ hai trên chiếc B-59 – Vasili Arkhipov.
Vasili Arkhipov đã kịch liệt phản đối, lập luận rằng trong một thời gian dài, vì không có mệnh lệnh nào truyền từ Matxcova nên một hành động quyết liệt như vậy là không thích hợp.
Vasili Arkhipov đã mạnh mẽ phủ quyết quyền khai hỏa vũ khí hạt nhân của chỉ huy tàu B-59. (Ảnh: alchetron.com)
34 tuổi, điềm tĩnh và khiêm nhường, người ta không biết làm thế nào mà Vasili Arkhipov có thể bình tĩnh thuyết phục người đồng nghiệp – chỉ huy tàu Savitsky đang điên cuồng và sở hữu một lá phiếu ủng hộ. Không ai biết chính xác, nhưng theo lời kể của các nhân chứng, đã có một cuộc đối đầu căng thẳng giữa 3 người cấp cao trên tàu B-59 khi ấy.
Cuộc tranh luận giữa chỉ huy tàu Savitsky và Vasili Arkhipov diễn ra khi nhiệt độ trong tàu ngày một tăng cao. Vasili Arkhipov vẫn giữ được vẻ lạnh lùng, bình tĩnh của mình để lập luận với viên chỉ huy rằng, B-59 không gặp nguy hiểm và đó không phải là một cuộc tấn công.
“Người Mỹ thả bom chìm bên trái, bên phải mạn tàu và luôn luôn tắt mục tiêu, đó là những tín hiệu mà người Mỹ muốn gửi tới tàu B-59 rằng, chúng tôi biết các vị đang ở đó. Hãy xác nhận và nổi lên mặt nước để nói chuyện. Chúng tôi không có ý định gây thiệt hại cho con tàu”, Arkhipov lập luận.
Ngày 27/10/1962, tên lửa không khai hỏa mà thay vào đó, B-59 từ từ nổi lên mặt nước trong tình trạng kiệt quệ mọi thứ. Nó từ chối sự trợ giúp của các tàu khu trục Mỹ, xoay lưng về phía Cuba và hướng về phía bắc trở về Liên Xô, nơi nó được chào đón một cách đáng quan ngại.
Khi B-59 trở về, thủy thủ đoàn đã gặp phải sự ghẻ lạnh thờ ơ. Dưới con mắt của những lãnh đạo cấp cao Xô Viết khi ấy, hành động quay đầu trở về của B-59 được cho là hành động đầu hàng người Mỹ và họ chẳng khác gì những kẻ tội đồ. Một đô đốc Liên Xô khi ấy từng nói: “Sẽ tốt hơn nếu các vị chìm cùng tàu của mình”.
Người Mỹ không lên tàu, không kiểm tra, vì vậy Hải quân Hoa Kỳ không thể ngờ rằng, B-59 sở hữu vũ khí hạt nhân cho tới khoảng nửa thế kỷ sau, khi các cựu chiến binh gặp nhau tại một cuộc hội ngộ kỷ niệm 50 năm sự kiện đó vào năm 2012.
Vai trò của Vasili Arkhipov trong việc cứu thế giới thoát khỏi một cuộc chiến tranh hạt nhân vẫn là một bí mật cho đến tận khi ông qua đời vào năm 1998. Và với thế giới, ông có lẽ là một trong những người anh hùng vô danh của thời đại.
Quyết định hủy bỏ ngòi nổ cận kề cuộc chiến tranh thế giới thứ ba đã không được thực hiện tại điện Kremlin hay Nhà Trắng, mà trong phòng điều khiển của một chiếc tàu ngầm đang trong lằn răn của việc khai hỏa vũ khí hủy diệt.
Quyết định hủy bỏ ngòi nổ chiến tranh hạt nhân không phải ởTổng thống Mỹ Kennedy hay Tổng bí thư Liên Xô Khrushchev. (Ảnh: AP)
Như Thomas Blanton, Giám đốc Cục Lưu trữ An ninh Quốc gia Hoa Kỳ phát biểu vào năm 2002: “Vasili Arkhipov từ chối tuân lệnh chỉ huy tàu ngầm và dám đối mặt với những thách thức từ cuộc đối đầu của mình. Chúng ta nên cảm ơn vì sự bất tuân đó”.
Thế giới hỗn loạn vẫn còn tồn tại một số quốc gia vẫn đang tiếp tục coi việc phát triển vũ khí hạt nhân như sự sống còn của thể chế mà Bắc Triều Tiên là một ví dụ điển hình. Xử lý hạt nhân, sử dụng hạt nhân, hay không sử dụng chúng đòi hỏi sự thận trọng và bình tĩnh cao độ.
Xuân Trường

10 khoa học gia cổ đại có những khám phá tiên phong đi trước thời đại cả nghìn năm


Cách đây hàng nghìn năm, các nhà hiền triết Ấn Độ thời cổ đại đã nổi tiếng với những khám phá về lực hấp dẫn, máy bay, tên lửa, lý thuyết nguyên tử, y học, thiên văn học, vũ trụ học…
Nhiều người cho rằng trong thế kỷ 20 và 21 mới là thời kỳ bùng nổ nhiều phát minh công nghệ hiện đại, nhưng thực ra nhiều phát minh quan trọng trong thời kỳ này của chúng ta lại được tổ tiên chúng ta khám phá ra trước đó cả vài nghìn năm. Nhiều kiến ​​thức khoa học ngày nay coi là trọng yếu thì đều có thể được tìm thấy trong các văn tự Ấn Độ thời cổ đại.

Bhaskaracharya và Thuyết về trọng lực

Bhaskaracharya nghĩ ra Luật hấp dẫn trước Newton hơn 5 thế kỷ.
Khi nói về Lực hấp dẫn, chúng ta nghĩ ngay đến cái tên “Isaac Newton”. Tất cả chúng ta đều được nghe kể câu chuyện trong sách giáo khoa, về cách Newton được truyền cảm hứng để cho ra đời “Luật Hấp dẫn” khi ông quan sát một quả táo rơi xuống từ một cái cây.
Ngày nay, lịch sử khoa học thời cận đại vẫn ghi nhận Newton là người đầu tiên khám phá ra các khái niệm lực hấp dẫn. Nhưng hẳn bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng Thuyết hấp dẫn đã được nhà toán học người Ấn Độ Bhaskaracharya nghĩ ra trước thời đại Newton  hơn 5 thế kỷ.
Ông là một trong những nhà thiên văn học, nhà toán học nổi tiếng nhất của thế kỷ 12. Ông viết “Siddhānta Śiromaṇī” – một tác phẩm Toán học ở tuổi 36 vào năm 1150. Bhaskaracharya đã tuyên bố các định luật hấp dẫn trong cuốn sách này như sau: “Các vật thể rơi xuống đất do lực hút bởi Trái đất. Do đó, Trái đất, Hành tinh, Chòm sao, Mặt trăng và Mặt trời được giữ trong quỹ đạo do sự hấp dẫn này”.
Những hiểu biết của ông về thiên văn đã đi trước thời đại chúng ta khá lâu. Ông cũng đề cập đến hình dạng của Trái đất trong khi trả lời câu hỏi của cô con gái bé bỏng của mình. Bhaskaracharya nói rằng, những gì chúng ta nhìn thấy không phải là thực tế, Trái Đất có thể trông phẳng nhưng thực ra nó có hình cầu.
Ông giải thích thuyết này bằng cách nói rõ: “Nếu bạn vẽ một vòng tròn rất lớn và nhìn vào một phần tư chu vi của nó, bạn sẽ thấy nó như một đường thẳng. Nhưng  đúng nghĩa thì đó là một vòng tròn. Trái Đất tương tự có dạng hình cầu”.
Maharshi Bhardwaj – Phát minh ra máy bay
Maharshi Bhardwaj đã đề cập đến phương tiện hàng không cách đây 2.500 năm.
“Máy bay đã tồn tại ở Ấn Độ 2.500 năm trước và họ đi từ nước này sang nước khác và từ hành tinh này sang hành tinh khác”, đây là tuyên bố của Hiệp hội Khoa học Ấn Độ trong một hội nghị chuyên đề về ‘Khoa học cổ đại thông qua tiếng Phạn’. Đây là  tổ chức khoa học hàng đầu của Ấn Độ có hơn 30.000 nhà khoa học thành viên.
Chúng ta biết rằng, anh em nhà Wright là người đầu tiên chế tạo ra máy bay và cất cánh bay “đúng nghĩa” vào năm 1904. Nhưng dựa trên các bản văn tự Vedic cổ đại, người xưa hé lộ rằng công nghệ hàng không ở Ấn Độ cổ đại ở Rigveda vô cùng phát triển cách đây… hơn 2.500 năm.
Maharshi Bhardwaj là một trong những nhà đại hiền triết Hindu vĩ đại nhất của Ấn Độ cổ đại. Trong cuốn sách Vimana Samhita của mình, ông đã chỉ ra rằng máy bay đã được sử dụng rộng rãi trong thời Sử thi Ramayana và Mahabharata, cho thấy rằng hàng không là một nhánh phát triển khá “sôi động” vào thời điểm đó.
Ông đã đề cập đến việc sử dụng nhiều loại hợp kim khác nhau để chế tạo ra một chiếc máy bay. Ông cũng nói về những chiếc máy bay “khổng lồ” bay ở Ấn Độ cổ đại, có cấu trúc cơ bản là 60 x 60 feet và trong một số trường hợp là trên 200 feet với 40 động cơ nhỏ.
Hệ thống radar Ấn Độ cổ đại được gọi là ‘rooparkanrahasya’. Ngoài ra, cuốn sách của Bharadwaj còn đề cập vải trang phục của phi công được chiết suất từ thảm thực vật dưới nước và chế độ dinh dưỡng của các “phi công” gồm sữa trâu, bò và cừu. Sách Vimana Samhita cũng đề cập cách thức di chuyển của máy bay: “Đi từ hành tinh này sang hành tinh khác”.
Garga Muni – Nhà chiêm tinh học
Garga Muni khai sáng ngành chiêm tinh học vào thế kỷ thứ nhất.
Garga Muni là một nhà chiêm tinh học thời vua Prithu. Tương truyền rằng, Garga Muni có niềm đam mê quan sát và nghiên cứu các chòm sao. Một số văn tự Jyotisha thời cổ đại đề cập đến thiên văn học được cho là của Garga Muni. `
Cuốn Garga Samhita, một bản văn tự bằng tiếng Phạn của ông có niên đại từ khoảng thế kỷ thứ nhất, tổng hợp sáu chương về khoa học chiêm tinh thời cổ đại. Còn văn tự Garga Purana của ông thì đặt ra các quy tắc của chiêm tinh học một cách chi tiết.
Học thuyết ông  hé lộ Trái đất và Mặt trăng đều là hình cầu,ông cũng nghiên cứu nắm được quỹ đạo của Mặt Trăng và tính được các kỳ trăng tròn và trăng khuyết.  Ông còn phần biệt được 5 hành tinh Kim, Hỏa, Mộc, Thủy, Thổ, biết được một số chòm sao và sự vận hành của các ngôi sao chính.
Vishwamitra – Ông tổ của ngành tên lửa đẩy
Hàng ngàn năm trước, Vishwamitra đã sáng chế ra một thứ vũ khí có hình thức vận hành như tên lửa hiện đại ngày nay.
Trước khi trở thành là một trong những nhà hiền triết được kính trọng nhất ở Ấn Độ thời cổ đại, Vishwamitra là một vị vua anh minh và đồng thời cũng là một chiến binh dũng cảm.
Hàng ngàn năm trước, để bảo vệ thành trì của mình, ông đã phát minh ra tên lửa hay một điều gì đó tương tự như hệ thống tên lửa đẩy hiện đại ngày nay .Là một chiến binh, ông đã sử dụng những vũ khí này và hướng dẫn cho các chiến binh cách thức hoạt động của tên lửa trong văn tự cổ Rigveda.
Văn tự ghi chép như sau: “Những tên lửa đó sáng rực và khá kỳ lạ. Một số giống như lửa, một số giống như khói, và một số giống như Mặt Trăng và một số giống như Mặt Trời”. Mãi đến đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học mới phát minh ra tên lửa đẩy
Sushruta – Sáng lập ngành Phẫu thuật
Sushruta là danh y nổi bật nhất về Khoa học Phẫu thuật trong khoảng thời gian 1200-600 TCN.
Sushruta là một danh y phẫu thuật người Ấn Độ cổ đại và là tác giả của luận thuyết Sushruta Samhita. Ông được mệnh danh là “cha đẻ của ngành phẫu thuật” và được coi là một trong những danh y nổi bật nhất về Khoa học Phẫu thuật trong khoảng thời gian 1200-600 TCN.
Một trong những văn tự đầu tiên về y học là Bower (thế kỷ thứ 4 hoặc thứ 5 trước CN). Trong những văn tự này hé lộ rằng ông đã học phẫu thuật để chữa bệnh tại Varanasi từ bậc thầy Dhanvantari, một thần y trong thần thoại Hindu.
Sushruta vừa là thầy thuốc vừa là thầy giáo dạy về y học và để lại một cuốn ghi chép về phương pháp khám và trị bệnh, trong đó ông mô tả rất chi tiết về các môn giải phẫu, sản khoa… Mặc dù bị các tu sĩ Bà la môn phản đối, ông chủ trương phải mổ tử thi để thực nghiệm. Chính ông là người đầu tiên đã lấy một mảnh da trên cơ thể người để đắp vào vành tai bị đứt lìa mà ngày nay y học hiện đại gọi là Phẫu thuật thẩm mỹ. .
Aacharya Charak – Danh y về da liễu
Acharya Charak là một danh y da liễu nổi tiếng vào thế kỷ thứ 2
Acharya Charak là một danh y nổi tiếng vào thế kỷ thứ 2,  là ngự y của vua Canisca thuộc vương triều Cusan, đồng thời cũng là một “chuyên gia” về da liễu. Acharya Charakđã nghiên cứu về cơ thể, về tử cung và các loại thảo dược. Những loại thuốc dành  cho các bệnh phổ biến nhất ngày nay như bệnh tiểu đường, bệnh tim… được ông phát hiện cả nghìn năm trước.
Tác phẩm “Charak Samhita” của ông là một cuốn y học đã sớm có từ buổi đầu bình minh thuở hồng hoang,  đã được dịch ra tiếng Ảrập, sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng khác trên thế giới và cho đến nay vẫn có giá trị để tham khảo. Nó cũng được coi là tác phẩm dược học cổ nhất, trong đó mô tả chi tiết công dụng và tính năng chữa bệnh của hơn 100.000 loại thảo mộc.
Ông đã chứng minh sự tương quan giữa tâm linh và thể chất có ảnh hưởng rất lớn đến việc chẩn đoán và chữa bệnh. Ông cũng đã quy định và đề ra những điều lệ đạo đức cho những người hoạt động trong ngành y vào thế kỷ thứ hai, nhiều năm trước khi “Lời thề Hippocrate” ra đời tại Hy Lạp. Trong đó, ông xác định bổn phận của người thầy thuốc là trị bệnh thì không nghĩ đến danh lợi, mà là cứu nhân độ thế.
Patanjali – Khai sáng Kinh Yoga
Patanjali là một nhà hiền triết Ấn Độ cách đây 5000 năm và đề ra Kinh Yoga (Yoga sutra)
Patanjali là một nhà hiền triết Ấn Độ cách đây 5000 năm và đã đề ra Kinh Yoga (Yoga sutra). Kinh Yoga của Patanjali là kinh điển quan trọng nhất trong hệ thống Yoga, nói về Raja Yoga (Yoga vua), là khoa học Yoga cao cấp nhất và được coi là nền tảng căn bản của các nhánh kỹ thuật yoga trong thời đại ngày nay.
Từ Yoga mà nhà hiền triết Patanjali đề ra bắt nguồn từ tiếng Sankrist cổ, có nghĩa là Sự hợp nhất (Union). Tức là sự hợp nhất, kết nối giữa linh hồn và thần thánh, hay là sự kết hợp giữa bản thể và vũ trụ. Yoga không những chỉ có nghĩa là diễn tả trạng thái kết hợp mà còn có nghĩa là đạt được trạng thái kết hợp ấy
Acharya Kanad – Cha đẻ của lý thuyết nguyên tử
Khoảng 2.600 năm trước, Acharya Kanad đã phát triển khái niệm mà ngày nay chúng ta gọi là lý thuyết nguyên tử.
Trong thời hiện đại, nhà vật lý và hóa học người Anh John Dalton được ghi nhận là người đặt nền móng cho lý thuyết nguyên tử vào thế kỷ 19. Tuy nhiên, ông không phải là người đầu tiên khám phá ra các khái niệm về nguyên tử.
Cách đây khoảng 2.600 năm, Acharya Kanad, một nhà triết học và là nhà tư tưởng học vĩ đại người Ấn Độ đã có những khám phá vượt xa thời đại của ông, đã phát triển khái niệm mà ngày nay chúng ta gọi là lý thuyết nguyên tử.
Acharya Kanad là người đầu tiên trên thế giới thảo luận về nguyên tử và phân tử. Ông nói rằng “Mọi đối tượng trong quá trình của sự sáng tạo đều được tạo ra từ các nguyên tử, rồi các nguyên tử tổ hợp với nhau để tạo thành các phân tử.”
Ông phát hiện ra rằng vũ trụ được tạo thành từ “kana” có nghĩa là các nguyên tử. Ông đã nghiên cứu lý thuyết nguyên tử và tìm ra cách các nguyên tử di chuyển và phản ứng với nhau.
Kapila – Người khai sáng ngành vũ trụ học
Acharya Kapil sinh thời vào khoảng năm 3000 TCN có những khám phá về vũ trụ
Acharya Kapil sinh thời vào khoảng năm 3000 Trước Công nguyên, cùng thời với hai nhà hiền triết Kardam và Devhuti. Ông đã để lại cho nhân loại một văn tự cổ vô giá là cuốn Sankhya. Công trình tiên phong của ông đã rọi ánh sáng cho sự hiểu biết của con người về nguồn gốc và nguyên tắc của Linh hồn tối thượng (Purusha), về vật chất nguyên thủy (Prakruti) và sự sáng tạo của Đấng Tối cao.
Ông khẳng định rằng, vũ trụ được tạo nên bởi vật chất nguyên thủy  năng lượng và Đấng tối cao sáng tạo vũ trụ.
Chanakya – Một chính trị gia vĩ đại
Chanakya được coi là người tiên phong trong lĩnh vực kinh tế và khoa học chính trị từ thế kỷ 4 TCN.
Chanakya hay còn gọi là Vishnu Gupta là một nhà thông thái dưới triều đại  Hoàng đế Maurya. Sử sách cổ đại ghi chép rằng, đây là vị hoàng đế đầu tiên cai trị Tiểu lục địa Ấn Độ thống nhất.
Chanakya được coi là người tiên phong trong lĩnh vực kinh tế và khoa học chính trị. Những công trình nghiên cứu của ông được coi là tiền thân quan trọng của nền kinh tế thời cổ đại. Ông là tác giả của cuốn luận văn chính trị Ấn Độ cổ, gọi là văn tự  Arthasastra.
Tác phẩm này của Chanakya ra đời trước thời của Bernardo dei Machiavelli khoảng 1.800 năm. Machiavelli (1469-1527) được xem là một trong những người sáng tổ ra nền khoa học chính trị hiện đại và là nhân vật trọng yếu của bộ máy chính trị nước Ý thời Phục Hưng thế kỷ 16.

Xuân Trường

Không có nhận xét nào:

CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU SÓC TRĂNG THAM QUAN, ỦNG HỘ HOANGDIEUTRUONGXUASAIGON.BLOGSPOT.COM. CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM NHIỀU SỨC KHỎE, THÀNH CÔNG TRONG CÔNG VIỆC.