SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Kho quẹt là món được hầu hết người miền Nam biết đến, chứ không riêng gì xứ miền Tây. Trước kia, đây là món của người nghèo, nhưng những năm gần đây nhiều nhà hàng, tửu quán sang trọng cũng có món này. Vì nhiều lẽ, dân nhậu rất khoái món này, chấm với rau quả củ (luộc) nhậu cho đỡ ngán. Hoặc khi say là đà, lạt miệng thèm một chút gì mặn mặn, quen quen ăn với cơm trắng, để hồi ức lại một thủa của những ngày xưa, rất xưa.
Vậy ai là người sáng tạo ra món cơm cháy-kho quẹt?
Có lẽ, “phát kiến” này cũng bâng quơ, tình cờ, như là: “Ngồi buồn, đốt một đống rơm…”
Miền Tây những chiều mưa lạnh. Ngồi bó gối trong mái nhà tranh, nhìn mưa giăng kín ngoài sông, nghe mưa rạt rào trên những tán lá, lôp bộp lúc thoảng lúc mau trên mái nhà. Hồi lâu, vừa buồn tình, vừa “kiến cắn bụng,” làm biếng kiếm gì ăn, đành đi lục tủ chén. Thấy nồi cơm còn lỏng chỏng ít cơm cục, với tảng cháy còn dính đáy nồi. Kiếm tới, kiếm lui thì cũng chỉ còn chén nước mắm đã dùng hồi trưa. Mưa lạnh, cơm nguội lại đóng cục, chan nước mắm nuốt sao trôi? Đành đổ chén nước mắm cũ vô cái nồi đất. Mở thố đựng mỡ đã thắng, còn nguyên tóp mỡ nâu vàng thơm ngậy, múc hai muỗng (cả nước mỡ lẫn tóp) đổ vô nồi đất. Tiện tay “bốc trộm” mấy con tôm khô trong hũ vợ vẫn để nấu canh, thẩy thêm vô nồi đất mấy trái ớt hiểm còn sót lại (đã khô héo)… Cho lên bếp đã nhóm lửa, ngày mưa củi ướt khói cay xè chảy nước mắt, mà khi mùi thơm của hỗn hợp nước mắm kho quẹt đã sánh lại, dậy mùi thơm thèm chảy nước miếng. Rắc thêm vô chút tiêu xay sẵn, tiện tay bẻ mấy cọng hành ngoài mé hiên, thêm mấy nhánh tiêu tươi của mấy dây tiêu sau nhà còn ướt lướt thướt nước mưa.
Chao ôi! Cái miếng ăn đầu tiên sau một “phát kiến” hết sức tình cờ sao mà ngon! Hết cơm, rồi từng tảng cháy chấm nước mắm kho quẹt sao mà ngon lạ lùng. Nồi cơm còn sót lại, phút chốc đã cạn… vèo. Miệng còn thèm ăn, lại tiếp tục “suy tư” về món ăn. Lần sau, có lẽ phải hái thêm chút rau cỏ trong vườn, luộc lên rồi chấm với kho quẹt. Chà! Đã đời ông địa nha! Ai dám nói nhà nghèo, rau trái trong vườn không tạo được một bữa ăn “no cành hông” mà vẫn thèm ăn… nữa.
Nhưng nhà hàng cũng không mấy khi có vài ba trái ớ hiểm (đã khô) bỏ vô nồi kho quẹt, thường dùng ớt tươi, nên vị có khác. Nhất là thiếu đi mấy nhánh tiêu xanh bẻ trong vườn, nên nồi kho quẹt đã bị “hương đồng gió nội, bay đi ít nhiều.” Hơn nữa, về phần rau củ nhà hàng luộc thường là cà-rốt, bông cải, bí, bầu. Trong khi miệt quê, rau thường gọi chung là “rau tập tàng,” có khi là rau đắng (còn thương rau đắng mọc sau hè) hoặc đọt choại…
Rau đắng trụng sơ qua nước sôi, chấm kho quẹt ăn cơm hay nhậu với rượu đế đều… bá chấy. Còn đọt choại chấm kho quẹt ăn với cơm ngày mưa lạnh thì ăn quên thôi.
Nhưng có lẽ, nồi nước mắm kho quẹt nấu củi những ngày mưa, khói um cay xè hai con mắt thì có thể thay bằng bếp gaz. Nhưng món cơm cháy nơi đáy nồi cơm một thủa tạo bởi bếp lửa hồng, với củi than đượm nồng thơm mùi gạo mới. Thì ngày nay tìm ở đâu ra, khi mà từ thành thị tới miền quê, đâu đâu cũng xài nồi cơm điện.
Nhà hàng ở Sài Gòn, thường có bán món kho quẹt ăn với rau củ luộc hoặc cơm trắng, không thấy bán với cơm cháy (có lẽ khá phiền phức cho đầu bếp).
Nhưng tại những quận vùng ven Sài Gòn, nơi của những người lao động, bình dân, hoặc có gốc gác từ miền Tây, như là quận 8, quận 4. Người ta thấy có những quán ven đường (dạo gần đây) trương lên những tấm bảng, mang dòng chữ: “Cơm cháy-kho quẹt.”
Quán thường nhỏ, kê chừng 2-3 cái bàn trên lề đường, khá bất tiện nên đa phần khách đứng chờ mua mang về nhà, để thong thả thưởng thức và nhớ về một vùng ký ức xưa.
Như tại khu ẩm thực Vĩnh Khánh (thuộc Khánh Hội – quận 4), là một nơi san sát những quán nhậu bia. Nhưng lọt thỏm giữa khu ăn nhậu ồn ào, náo nhiệt lại có một quán cơm cháy-kho quẹt, nép mình bên đường. Khách chờ mua đem về nhà, còn có mấy quý cô và quý em thong thả ngồi bên lề đường “say sưa” với món cơm cháy-kho quẹt, thêm một dĩa rau luộc.
Vậy mới biết, đâu cứ phải có rượu, có thịt như cánh mày râu thì mới là say sưa. Cái “say sưa” của quý chị em phụ nữ xem chừng cảm động hơn cánh đàn ông.
Để tạo ra cơm cháy cho số đông thực khách. Quán ven đường dùng bếp lửa khè (dùng gaz), với nhiệt độ lên tới vài trăm độ C, cho cơm nấu mới lên chảo gang, dùng một cái vá, nhanh tay nhận đều lên lớp cơm tráng trên chảo. Họ làm chừng 5 phút thì ra được một “tảng” cơm cháy to bằng cỡ cái chảo nhỏ. Dù không thơm ngon bằng cơm cháy của nồi cơm nấu trên bếp củi. Nhưng cũng chấp nhận được. Còn món nước mắm kho quẹt, như đã trình bày ở phần trên, còn có hành tím và tỏi bằm nhuyễn, phi thật thơm trước khi cho nước mắm vô nồi đất (dĩ nhiên là không quên bỏ thêm muỗng đường)…
Khi người con gái lớn xách về một phần cơm cháy kho quẹt, ngoại chìa tay: “Cho ngoại miếng coi, lâu ngày nhớ quá!”
Cơm cháy kho quẹt gợi nhớ một thủa nơi quê hương, đồng nội với khói lam chiều xưa. Có người con gái theo chồng bỏ ruộng bưng về nơi phố hội. Chớp mắt thôi, kỷ niệm xưa đã xa ngái, ánh hồi quang của ngày cũ, chỉ kịp lóe lên nơi khóe mắt, như chút tơ vương làm cay lồng mắt.
Văn Lang
Kể về cơm thố Chợ Cũ năm xưa
Cơm là thực phẩm chánh của người Việt mình từ xưa đến nay. Có nhiều loại cơm quen thuộc như cơm trắng, cơm tẻ, cơm nếp, cơm chiên, cơm vắt, cơm nguội, cơm tấm, cơm tay cầm, v.v.. Nhưng cái tên “cơm thố” nghe lạ tai với không ít người Việt mình ở hải ngoại.
Cơm thố là cơm gì? Chợ Cũ ở đâu?
Cơm thố là làm chín gạo trong cái thố nhỏ bằng cách chưng cách thủy. Mỗi thố cơm tương đương độ một chén cơm nhỏ. Đây là cách nấu cơm cầu kỳ theo truyền thống của một số dân tộc người Hoa. Theo như kể lại, cơm thố có mặt ở Sài Gòn-Chợ Lớn vào thập niên 30-40 của thế kỷ trước. Đến thập niên 70, do khăn gói gió đưa từ Gò Công lên Sài Gòn, tôi mới có cơ hội làm quen với vài “món ngon vật lạ” ở đô thành hoa lệ trong đó món cơm thố Chợ Cũ.
Chợ Cũ Sài Gòn nguyên là chợ Bến Thành, đã có trước khi Pháp chiếm Gia Định. Chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, gần thành Gia Định, bến nầy dân gian gọi là Bến Thành và chợ có tên là chợ Bến Thành.
Năm 1912, vì chợ cũ kỹ nên Pháp lựa chọn một địa điểm khác để xây cất một khu chợ mới lớn hơn. Địa điểm được lựa chọn nằm gần ga xe lửa Mỹ Tho (sau nầy là bến xe Sài Gòn), tức là địa điểm chợ Bến Thành ngày nay.
Khu chợ Bến Thành cũ được gọi là Chợ Cũ tới nay. Nên có câu ca dao:
Chợ Bến Thành dời đổi,
Người sao khỏi hợp tan.
Xa gần giữ nghĩa tào khang,
Chớ ham nơi qườn quới, (mà) phụ phàng bạn xưa!
Chợ Cũ xưa có nhiều tiệm cơm thố
Ngon mà giá bình dân là những tiệm cơm thố nằm góc đường Tôn Thất Đạm – Hàm Nghi. Đa số người đến tiệm là người Việt gồm đủ thành phần xã hội. Người ra vào tiệm tấp nập chủ yếu vì món cơm thố ngon thơm, dẻo và luôn luôn nóng mà giá cả rất “bèo” như tiếng Sài Gòn bây giờ.
Phần tôi lần đầu tiên được ông bạn vong niên mời ăn cơm thố Chợ Cũ. Vào tiệm thấy người ta kêu những món mà từ nhỏ tôi chưa được ăn bao giờ như cá hấp, gà nướng, bồ câu quay, canh cải bẹ xanh nấu với cá thác lác v.v..
Thấy có người vào ăn một hơi cả chục thố cơm, mà đồ ăn chỉ với một dĩa cá mặn rất ư là khiêm nhường. Cơm thố Chợ Cũ từ đó đã gây cho tôi nhiều ấn tượng về thế giới ẩm thực của người Hoa. Sau này trở thành dân Sài Gòn, có nhiều dịp ăn cơm thố, tôi mới khám ra nhiều điều thú vị và bí mật về thế giới cơm thố từ lối nấu, cách ăn của Tàu đã du nhập vào người Việt.
Như ở tiệm cơm thố Bac-Ca-Ra sau rạp chiếu bóng Nam Quang (?) thực khách hầu như chỉ có người Việt. Tiệm nổi tiếng nhờ chiêu “khách gọi món gì tiệm nấu món nấy,” bất kể món gì, từ món “cá hàm dỉ,” canh cải bẹ xanh nấu gừng, đến món cá chưng, cá hấp v.v.. Thế mà thực khách ai nấy đều vui vẻ chờ đợi!
Nay nói về cái thố hấp cơm
Thố là dụng cụ để đựng bằng sành sứ, là đồ dùng trong gia đình như chén, dĩa, tô, tộ. Thố có nhiều cỡ kiểu, có loại có quai/ không quai, có loại có nắp/ không nắp. Ngày xưa, nhà giàu ở miền Tây thường hay chưng một cặp thố kiểu loại lớn, trên bàn thờ trông cho sang.
Thố kiểu nhỏ được dùng đựng nước cúng, đơm cơm, đựng cơm rượu xôi vò v.v.. dọn trên bàn thờ trong ngày giỗ, ngày Tết. Thố bằng sành thì được dùng để hấp cơm, tiềm thuốc bắc. Thố kiểu làm bên Trung Hoa, còn thố sành được làm ở Bình Dương.
Nồi và xửng hấp cơm thố cũng rất đặc biệt
Nồi to, trong nồi đặt cái xửng lớn có hai, ba từng hấp, xửng đan bằng tre có nhiều lỗ thoát hơi lớn bằng ngón tay cái. Phần chứa nước sôi của nồi hấp có chỗ tiếp thêm nước nóng mà không cần dời các từng chứa cơm, tránh không làm cho cơm bị “hót hơi.” Các thố cơm sắp thưa và đều trong mỗi từng hấp để còn chỗ cho hơi nước bốc lên từng trên cùng.
Gạo dùng nấu cơm thố
Là loại gạo ngon đặc biệt như gạo Sóc Nâu, gạo hột dài, gao nàng hương Chợ Đào.
Cho ít gạo, đã được gúc sạch để ráo nước, vào từng cái thố sành. Tùy theo loại gạo mà gia giảm nước. Nước chỉ được châm vào thố một lần mà thôi, không được châm thêm. Tất cả đều do kinh nghiệm của người bếp làm sao cho cơm vừa ăn, không khô, không nhão. Người bếp phải biết chắc từng cơm nào đã chín để chuyển qua từng khác, bằng cách chồng nhiều từng cơm đã chín lên nhau để chỉ giữ cơm luôn được nóng.
Hấp cơm thố quả là cầu kỳ và công phu! Cơm thố như vậy là “cơm trắng đặc biệt”, không giống như cơm trắng thường nấu bằng nồi đất mà chúng ta ăn hằng ngáy ở nhà. Hột gạo trong thố được làm chín bằng cách hấp nên mùi thơm của gạo len ẩn vào trong ruột hột cơm, làm cho cơm thố thơm hơn cơm nấu. Cơm thố còn có đặc tánh nữa là giữ nóng lâu, để nguội hấp lại mà không bị khô. Đặc tính nầy cơm nấu thường không có.
Vào tiệm cơm thố, “phổ ky” bưng lên, ăn bao nhiêu tính tiền bấy nhiêu. Bạn không cảm thấy ăn cơm thừa của người khác. Thố cơm bé xíu, trông hấp dẫn, và hai đũa là hết. Bạn thấy ngon hơn ăn cơm bới trong nồi.
Được biết tới nay vẫn còn một tiệm cơm thố kỳ cựu ở số 45, đường Tản Đà, quận 5, Chợ Lớn, mang bảng hiệu tiếng Việt là Giang Nam, nổi tiếng nhờ bán độc nhứt món cơm thố, không bán thêm mì hủ tiếu như tiệm khác. Bảng hiệu cơm thố Giang Nam có mặt vào khoảng 1942, nhờ được đạo diễn phim Người Tình (quay năm 1992) chọn để tái hiện cảnh sanh hoạt hàng ngày của Chợ Lớn thời thập niên 30-40 thế kỷ trước, làm cho cơm thố Giang Nam thêm tiếng tăm.
Cũng nên phân biệt cơm thố với cơm tay cầm
Cơm tay cầm là loại phục vụ cho nhiều người, dọn chung cho cả bàn cùng ăn. Cơm tay cầm là cơm nấu chung với thức ăn, là cơm tổng hợp, người ăn không phải ăn kèm với thức ăn nào khác. Thức ăn như hải sản, gan heo, gà quay… hấp chung với cơm trắng trong cái nồi nhỏ có một một quai, gọi là tay cầm. Cơm tay cầm cũng được làm chín bằng cách hấp cách thủy, sau khi chín có tiệm còn bắc xoong cơm tay cầm lên bếp lửa cho cơm khét phần dưới.
Tại Little Saigon đó đây còn có tiệm còn bán món cơm tay cầm. Riêng món cơm thố Chợ Cũ của tôi chỉ còn là “vang bóng một thời”. Khoa học tiến bộ, nấu cơm bằng nồi điện, làm cho cơm thố Chợ Cũ đã bị lùi vào trong ký ức! Đúng là đời sống văn minh làm cho “Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” như lời Chân Quê của Nguyễn Bính!
Kể cũng tiếc…
GS. TRẦN VĂN CHI
Người Hoa ở Chợ Lớn, những điều có thể bạn chưa biết.
1. Người Hoa ở Chợ Lớn phần lớn thuộc về năm nhóm người
chính: Quảng Đông (Việt) tính tình rộng rãi, giỏi kinh doanh buôn bán, Phúc Kiến
(Mân) bảo thủ gia trưởng và coi trọng việc thi cử đỗ đạt, Triều Châu (Tiều) sống
tiết kiệm, kham khổ và siêng năng và Khách Gia (Hẹ) đầu óc phóng khoáng và đặc
biệt nấu ăn rất ngon, nhất là những món Tây. người Hải Nam, món ngon của người
Hải Nam là cơm gà Hải Nam, thịt dê tiềm , miến xào khô mực , thịt kho (khâu nhục
), Kinh doanh, người Hải Nam thường mở tiệm nước, cà phê (Kapía), bán chạp phô
(tạp hóa) Trong đó Quảng Đông là nhóm đông nhất.
2. Ngôn ngữ chính để giao tiếp của người Hoa ở Chợ Lớn với
nhau là tiếng Quảng Đông vì tiếng Quảng Đông tương đối dễ nói. Người Hẹ, Tiều
và Phúc Kiến phần lớn đều có thể nói lưu loát tiếng Quảng Đông, còn người Quang
Đông hiếm ai có thể nói được ba thứ tiếng còn lại. Điều này khiến Chợ Lớn rất
giống Hong Kong về mặt ngôn ngữ với tiếng Quảng Đông là ngôn ngữ chính. Nhiều
người Hoa ở Chợ Lớn biết tiếng Phổ thông nhưng nói không tốt vì hầu như chẳng
bao giờ sử dụng.
3. Người Quảng Đông ở Chợ Lớn gọi nhau là Thoòng dành (Đường
nhân) để nhắc nhở quê hương của họ là ở Đường Sơn, Quảng Đông, gọi Sài Gòn là Xấy
Cung (Tây Cống) và Chợ Lớn là Thày Ngòn (Đề Ngạn). Còn người TQ thì gọi là Tài
Lục dành (người đại Lục). Người Hoa Chợ Lớn không thích bị đánh đồng với người
đại lục mà thích khi được khen giống người Héng Coỏng (Hương Cảng) hơn.
4. Người Hoa ở Chợ Lớn có một số đức tính như rất siêng năng
và giữ chữ tín trong kinh doanh, hầu như hiếm khi xảy ra chuyện thất tín hay
mua gian bán lận. Khi buôn bán với người Việt hoặc người nước ngoài, người Hoa
cũng không lợi dụng sự bất đồng ngôn ngữ để bán giá khác cho khách. Họ cũng ít
khi se sua chưng diện vẻ bề ngoài xe xịn, điện thoại xịn. Nhiều ông già người
Hoa ngồi uống cà phê quán cóc có thể là xì thẩu (đại gia) cỡ bự.
5. Người Hoa Chợ Lớn coi trọng gia đình và phần lớn dạy con
rất nghiêm. Gia đình nhiều thế hệ thường tụ tập đông đủ ăn cơm tối chung, hiếm
có chuyện mỗi người bưng một tô cơm ngồi vừa làm việc riêng vừa ăn hay đi đâu
quá giờ cơm tối. Tỉ lệ người Hoa nghiện ngập, cờ bạc, đánh nhau trong trường hoặc
phá thai rất hiếm cũng một phần nhờ gia giáo nghiêm khắc.
6. Đàn ông người Hoa hiếm khi nhậu nhẹt rượu bia. Dịp duy nhất
tôi thấy họ uống vài ly bia là đám cưới, thôi nôi hoặc tân gia và hầu như không
bao giờ ép uống tới say. Các quán ăn của người Hoa buổi tối hầu như không hề thấy
cảnh cánh đàn ông ngồi nhậu cà kê mà thường là cả gia đình vợ chồng con cái chở
nhau đi ăn. Đàn ông người Hoa phần lớn đều nấu ăn rất ngon và không ngại chuyện
bếp núc hoặc làm việc nhà.
7. Người Hoa Chợ Lớn cũng có một số nhược điểm như nhà ở
không chú trọng vệ sinh nên rất bừa bộn và cũ kĩ, coi trọng việc đẻ con trai nối
dõi tông đường,bảo thủ gia trưởng và mê tín. Các nghi thức ma chay cưới hỏi đều
rất rườm rà và tốn kém.
8. Nếu như người Việt Nam hay sử dụng nước mắm để nêm nếm,
người Hoa thường sử dụng nước tương, dấm đỏ, bột ngũ vị hương và dầu mè làm gia
vị chính. Người Hoa ít dùng ớt tươi mà thường dùng gừng, tiêu, ớt khô hoặc sa tế
để tạo vị cay cho món ăn.
9. Người Quảng Đông nổi tiếng các món canh tiềm, điểm tâm
(há cảo, xíu mại), hoành thánh, sủi cảo, hủ tíu mì...người Tiều có cháo trắng
cà na, trứng vịt muối, cải xá bấu, ruột heo xào cải chua, bún gạo xào và phá lấu...người
Phúc Kiến có món Phật leo tường nổi danh còn người Hẹ nấu các món như cơm
chiên, cơm xào, bò bít tết, gà xối mỡ, nui xào bò...những món kết hợp những
nguyên liệu phương Tây như củ hành tây, cà chua, ớt chuông, khoai tây...là số một.
Thời Pháp thuộc, các đầu bếp nấu ăn cho quan Tây phần lớn là người Hẹ.
10. Người Hoa ăn cơm nhất thiết phải có canh. Canh thường được
nấu thật lâu, hầm nhừ các nguyên liệu như thịt, rau cải và các vị thuốc với
nhau mấy tiếng đồng hồ rồi chủ yếu uống nước bỏ xác. Người Hoa ăn cơm không
chan canh như người Việt mà uống canh sau khi ăn cơm với các món mặn xong.
11. Người Hoa thích ăn chè (thoòng sủi = nước đường). Chè
người Hoa được nấu từ hầu như tất cả các loại nguyên liệu từ như các loại đậu
(đậu xanh, đậu đỏ, đậu đen), củ (khoai lang, khoai sọ, củ năng), hạt (bo bo,
hat sen, ý nhĩ...) quả (táo tàu, nhãn nhục, trái vải, đu đủ...) các vị thuốc
(hoài sơn, kỷ tử, thục địa, ngân nhĩ...) cho tới những thứ mang nguồn gốc động
vật (trứng gà, trứng cút, tuyết giáp, mai rùa...). Chè người Hoa không có nước
dừa như chè người Việt.
12. Món ăn Tết người Hoa thường là lạp xưởng, vịt lạp, canh
tóc tiên giò heo đông cô, canh khổ qua dồn thịt, gà luộc và bánh tổ (niên cao).
Tết Đoan ngọ ăn bánh bá chạng (gần giống bánh chưng của người Việt nhưng phần
nhân có trứng vịt muối, thịt heo và nấm đông cô và được gói bằng lá tre) và
thang viên (chè trôi nước). Người Hoa cũng cúng giao thừa, xông nhà, chúc tết
cha mẹ và nhận lì xì vào mùng 1 tết nhưng không chưng mai đào hay hoa trong nhà
như người Việt. Ngày giáp tết, người Hoa hay mua những tờ giấy đỏ viết chữ Phúc
hoặc những câu chúc tết như "vạn sự như ý", "xuất nhập bình
an", "sinh ý hưng long" (mua may bán đắt) viết bằng sơn nhũ kim
về dán trên dưa hấu hoặc trên tường nhà và trước cửa. Nhà làm ăn thì hay rước đội
lân về múa khai trương đầu năm.
13. Người Hoa phát lì xì hầu như bất cứ khi nào nhà có chuyện
hỉ như đám cưới, thôi nôi, đầy tháng, khai trương, tân gia...với ý nghĩa chia lộc
lấy hên. Màu may mắn là màu đỏ, màu xui xẻo là màu trắng, chỉ dùng cho tang ma.
14. Người Hoa có tinh thần đoàn kết tương trợ rất cao qua
các hội đồng hương được gọi là hội quán. Các hội quán lúc trước là các hội kín
của người Minh hương chống lại nhà Thanh. Khi qua tới Việt Nam, các bang hội
này dần mất đi màu sắc chính trị mà chủ yếu tương trợ giúp đỡ đồng hương về mặt
kinh tế. Trụ sở của các hội quán thường được đặt ở các miếu thờ Quan Công,
Thiên Hậu nương nương hay Bổn Công (Triều Châu). Những hội quán này ở Hong Kong
thường phát triển theo hướng làm ăn phi pháp gọi là "công đoàn" tức
băng đảng xã hội đen.
15. Ngoài những từ chỉ món ăn quá quen thuộc như hoành
thánh, há cảo, xíu mại, xá xíu, lạp xưởng...người miền nam trước 1975 còn dùng
khá nhiều từ gốc tiếng Hoa như pạc sỉu (cà phê sữa đá ít cà phê), xây chừng (cà
phê đen li nhỏ), tài mà ( đại ma = cần sa), xộ khám (toạ giam = ngồi tù), nhị
tì (nghĩa địa) tài chảy, a có (ca = anh), a chế (tỷ = chị), sườn xám (trường
xiêm = áo dài), xí quách (trư cốt = xương heo)...trong tiếng Quảng Đông, cà na,
pò pía, hủ tíu (phảnh), phá lấu, thím (thẩm = vợ của chú hoặc người phụ nữ
trung tuổi), tía (cha), má (mẹ), thèo lèo (trà liệu = bánh kẹo ăn khi uống
trà),bánh pía, tùa hia (đại huynh)...trong tiếng Triều Châu để sử dụng trong lời
ăn tiếng nói hằng ngày.
Nguồn: Vien Huynh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét