Qua nhiều thế kỷ, các kênh đào ở Venice đã tích tụ nhiều lớp phù sa, mảnh vụn và chất thải, dẫn đến tình trạng mất vệ sinh và gây ra mối đe dọa cho di sản kiến trúc của thành phố. Quyết định tháo nước và làm sạch các kênh đào được đưa ra nhằm nỗ lực giải quyết những vấn đề này, khôi phục các tuyến đường thủy trở lại hiện trạng trước đây và bảo tồn bản sắc văn hóa và lịch sử độc đáo của Venice.
Việc thoát nước và làm sạch các con kênh đòi hỏi sự lập kế hoạch, phối hợp tỉ mỉ và tốn nhiều công sức của đội ngũ kỹ sư, công nhân và tình nguyện viên. Nước được bơm ra khỏi các con kênh, để lộ đáy bùn và những kho báu ẩn giấu bên dưới bề mặt, chẳng hạn như các hiện vật bị mất, thuyền bị chìm và các công trình kiến trúc hàng thế kỷ.
Khi các con kênh được làm cạn, các đội dọn dẹp bắt đầu làm việc để loại bỏ hàng tấn trầm tích, mảnh vụn và rác thải tích tụ trong nhiều năm. Quá trình này bao gồm việc nạo vét, cọ rửa và đào các kênh đào để loại bỏ các lớp mảnh vụn và khôi phục các tuyến đường thủy về độ sâu và độ trong suốt ban đầu.
Việc thoát nước và làm sạch các kênh đào vào năm 1956 là một nỗ lực to lớn đã thu hút được sự chú ý và ngưỡng mộ của người dân Venice cũng như du khách. Dự án không chỉ cải thiện tình trạng vệ sinh và tính thẩm mỹ của các kênh đào mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản độc đáo và những tuyệt tác kiến trúc của Venice cho các thế hệ tương lai thưởng thức.
Sự kiện này tượng trưng cho niềm tự hào của người dân, nỗ lực của cộng đồng và cam kết bảo tồn di sản văn hóa của Venice. Việc thoát nước và làm sạch các kênh đào vào năm 1956 vẫn là một khoảnh khắc lịch sử trong lịch sử thành phố, thể hiện khả năng phục hồi, sự khéo léo và vẻ đẹp trường tồn của các tuyến đường thủy mang tính biểu tượng của Venice.
Sưu tầm
NHỮNG CON SỐ ẤN TƯỢNG VỀ TÀU SHINKANSEN NHẬT BẢN CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT
1. Tốc độ tối đa của tàu vào khoảng 320 km/h. Tốc độ khi chạy thử trên đường ray thông thường vào năm 1996 là 443 km/h và đạt kỷ lục 581 km/h năm 2003
2. Shinkansen do kỹ sư Hideo Shima sáng chế, với mong muốn thiết kế tàu “đem lại cảm giác như máy bay”. Sau khi rời ngành đường sắt, ông trở thành người đứng đầu Cơ quan phát triển hàng không vũ trụ quốc gia của Nhật Bản.
3. Ban đầu, tàu Shinkansen đi từ Tokyo tới Osaka (khoảng 500 km) mất 4 tiếng, giờ chỉ mất 2 tiếng 25 phút. Có khoảng 333 tàu shinkansen hoạt động mỗi ngày giữa Tokyo và Osaka trong năm 2012, chuyên chở 391.000 hành khách với tốc độ tối đa 270 km/h.
4. Tàu shinkansen thường rất đúng giờ. Thời gian đến muộn so với lịch trung bình chỉ 36 giây, tính cả các chậm trễ do nguyên nhân khó kiểm soát như thiên tai.
5. Tàu shinkansen có hồ sơ an toàn ấn tượng. Trong 49 năm hoạt động, chuyên chở gần 10 tỷ lượt khách, chưa có trường hợp hành khách nào thiệt mạng, dù Nhật Bản thường xuyên gặp động đất, bão lốc.
6. Tàu có hai hạng ghế được đặt tại các khoang riêng. Khoang đặc biệt có ghế lớn hơn, chỗ để chân rộng rãi hơn, tương tự như hạng thương gia. Ghế thường có kích cỡ nhỏ hơn, tương tự như hạng phổ thông trên máy bay.
7. Khi tới ga cuối, tàu shinkansen sẽ được một đội dọn dẹp làm sạch trong 7 phút. Các hành khách thường đem theo rác của mình để bỏ vào túi rác của nhân viên. Việc bỏ lại rác hay xả rác bừa bãi bị coi là bất lịch sự và thiếu văn minh ở Nhật.
Baobab, một loài thời tiền sử có trước cả loài người và sự phân chia các lục địa hơn 200 triệu năm trước. Bao báp (Adansonia) là loài cây đặc biệt có thân to đến khó tin. Chúng có thể tích trữ một lượng nước khổng lồ vì thân cây của chúng phồng lên rõ rệt trong mùa mưa. Cây có nguồn gốc từ thảo nguyên châu Phi, nơi có khí hậu cực kỳ khô cằn, nó là biểu tượng của cuộc sống và sự tích cực trong một cảnh quan mà ít loài khác có thể phát triển. Bao báp Châu Phi (A. Digitata) có phạm vi phân bố rộng khắp các vùng khô cằn của Châu Phi; sáu loài bổ sung có nguồn gốc từ đảo Madagascar ở Ấn Độ Dương, ngoài khơi phía đông nam châu Phi; và loài thứ tám có nguồn gốc ở tây bắc Australia. Cây bao báp còn sống lớn nhất được biết đến là Cây lớn Sagole, một mẫu vật của loài A. Digitata nằm ở Masisi, Vhembe, Nam Phi, gần biên giới với Zimbabwe. Dựa trên các phép đo gần đây nhất, Sagole có nền cực kỳ rộng với diện tích 60,6m2, cao 19,8m và tổng khối lượng gỗ và vỏ cây là 414m³. Khối lượng khô trên mặt đất của nó được ước tính là 54 tấn. Cây Baobab mọc ở 32 nước châu Phi. Cây được biết đến với tuổi thọ cao và một số mẫu vật ở Châu Phi có niên đại từ 1100-2500 năm tuổi và cao tới 30m và chu vi khổng lồ lên tới 50m. Cây Baobab có thể cung cấp nơi trú ẩn, thức ăn và nước uống cho động vật và con người, nhiều cộng đồng thảo nguyên đã xây nhà gần cây Baobab. Baobab cũng ẩn hiện giữa những gò đất cổ và những tàn tích nằm rải rác xung quanh chúng luôn có nguồn gốc từ thời Trung cổ hoặc Bồ Đào Nha thời kỳ đầu.
Cho đến năm 2018, loài bao báp còn sống lớn nhất là Tsitakakoike Baobab linh thiêng, một mẫu vật của loài Adansonia grandidieri có nguy cơ tuyệt chủng, mọc gần Andombiro trong Rừng Ambiky ở phía tây nam Madagascar. Cây cực kỳ mập mạp và nhỏ gọn có thân hình trụ với phần gốc rộng 59,6 m2, cao 14,6 m và tổng thể tích 455 m³ - 380 m³ trong đó là thân cây và 75 m³ trong đó là tán cây. Nó bị gãy một phần và sụp đổ vào tháng 2 năm 2018, khiến khoảng 40% cây vẫn đứng vững, nhưng dự kiến nó cũng sẽ sụp đổ ngay sau đó. Một cây baobab châu Phi thậm chí còn lớn hơn (A. Digitata) còn tồn tại trong Thế kỷ 21 là Cây Platland/Sunland ở Modjadjiskloof, Nam Phi, với gốc 67,9 m2, cao 18,9 m và tổng khối lượng gỗ và vỏ cây là 448 m³. Thật không may, một phần lớn Cây Platland đã sụp đổ và chết vào năm 2016, khiến Cây Lớn Sagole giành lấy vị trí hàng đầu. Baobab là một trong những loại gỗ nhẹ nhất so với bất kỳ loại cây nào. Gỗ Balsa được các nhà sản xuất máy bay mô hình biết đến là một trong những loại gỗ nhẹ và mềm nhất, với mật độ gỗ trung bình khoảng 0,15 g/cm³, tuy nhiên gỗ bao báp thậm chí còn nhẹ hơn, trung bình 0,13 g/cm³. Kết quả là khối lượng khô trên mặt đất của bao báp Platland ước tính chỉ khoảng 58 tấn và khoảng 59 tấn đối với Tsitakakoike. Xét về khối lượng, cây bạch đàn khổng lồ (Bạch đàn) của Úc là những cây gỗ cứng lớn nhất. Cây lớn Sagole được xác định niên đại bằng carbon là 800 năm, Cây Platland là 1100 năm và Tsitakakoike là 1270 năm.