Ngày xửa này xưa, thuở thời tạo
thiên lập địa, cây cỏ đều có
tên, riêng một cây không biết mình tên gì, bèn lên tấu
trình Ngọc Hoàng xin danh tánh.
Quì gối trước
Thiên Nhan định trần
tình, Ngọc Hoàng phán hỏi:" Ngươi tên
chi?". Ấp úng thưa: "Muôn tâu, thì
là..".Chưa dứt lời, Trời bảo:"
Thì Là, hãy bình thân." . Thế là cây Thì Là từ đấy
chính
thức có tên trong ‘Sổ Bộ Đời’
loài thảo mộc. Riêng con người, tạo vật
tinh vi siêu đẳng nhất, từ lúc
còn là bào thai, cha mẹ đã hăm hở bắt đầu tìm
đặt tên
con theo qui lệ nước mình.
Dân ta có khuynh hướng cho rằng
tên ảnh hưởng đến vận mệnh cả đời nên
rất cẩn trọng
trong việc đặt tên con. Thêm vào đấy, do
ảnh hưởng chính trị, tôn
giáo, địa thế, Việt Nam
trở thành nơi gặp gỡ,
hoán chuyển trào lưu tư tưởng, văn hóa..., quốc tế. Vì
thế tên cũng theo đà tiến bộ văn minh trở nên
dồi dào, tự do.
Tiếng Việt đơn âm
có dấu, hầu hết các
từ đều có nghĩa lại
thêm Nho học bàng bạc thẩm thấu
trong văn chương,
bao nguyên nhân đó cũng đủ làm
trở ngại hay phong phú hóa việc đóng dấu ấn con
người.
Khi khai sinh, xin cẩn thận kiểm lại tên con trẻ , nếu không, có khi các ngài Chánh lục bộ vì vô tình thói quen quên bẳng hay đổi ngay dấu nét, tên cả đời rõ thắm thía đắng cay! Như chữ
"R" (rờ)
thành "D"(dê), ‘dâu’ thành ‘ râu ‘
Y dài thay I ngắn,
‘thúy’ thành ‘thúi’,
chữ "giai" mà thêm chơi dấu sắc,
giai
thành (giái)
‘CH’(chờ) đọc
‘TR’(trờ) "châu" hành "trâu" quả thật là
… hết ý!
Chẳng những thế, theo cổ tục còn cử tên kỵ húy, tên không được trùng với danh tánh ông bà và ngay cả hàng xóm vì "bà con xa không bằng láng giềng gần".
Tên cúng cơm thường chỉ được sử dụng trên giấy tờ, luật pháp, nhất là ở miền Nam, nên chỉ gọi nhau bằng thứ mà thôi. Cả xóm làng toàn là chị hai, cô ba, bác tư, chú tám.. Và có lẽ đễ phân biệt dễ dàng âm thầm "rờ mọt" vào thứ tạo tên riêng hay hổn danh theo tướng, tật, thói quen, âm vận, nghề nghiệp... Người Pháp có Louis Le Grand ta chẳng kém nào Hai Hòn, Ba Xạo, Tư Xệ, Năm Lùn, Sáu Lé, Bảy Cao, Chín Niểng, Mười Ù,..
Tên Việt ta thường gồm ba
chữ: họ, chữ lót, tên. Quan niệm cổ truyền,
"nam nữ thụ thụ bất
thân" như Lục Vân Tiên nói với Kiều
Nguyệt Nga :
‘’Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Đó là phận gái đây là phận trai.’’
cũng có ảnh hưởng đến việc đặt tên
con, Nam
Văn, Nữ Thị chữ lót
hầu phân biệt gái trai.
Rồi dần dần để theo
kịp trào lưu tiến
hóa, tên cũng biết hòa
đồng
bình đẳng.
Tên loài hoa như Hồng, Lan... không còn ưu
tiên độc quyền cho
giới quần thoa như Phương
Trang Nhất Anh Ba Bé không đặc biệt
dành riêng cho nữ hay nam. Tên cũng "unisex" không phân biệt gái
trai như quần "Jean", giày
"Nai kì"(Nike) thể tháo...
Mỗi thứ tiếng đều
chuyển mình dũa mài biến đổi,
tên cũng theo thời
trau chuốt đẹp sang hơn.
Bay bướm hơn, phóng khoáng hơn,
cách đặt tên
không còn gò bó nữa, không màng "văn thị".
Căn bản ba chữ được du
di dài ngắn, ảnh hưởng
ngoại quốc nên hai họ cha
mẹ được ghép liền vào
trước tên con.
Phải theo thời mới
"síc" không quê, báo hại lắm lúc
đầu
trên xóm dưới trẻ con trùng tên chỉ khác
nhau chữ lót. Tinh thần đoàn kết quả được
nâng cao trong
gia đình, mạng lưới tên
được giăng ra làm sờn
lòng bao kẻ địch. Đừng cắt cớ lượn qua
nhà người đẹp gọi tên
em, chẳng những khó thấy em
mà toàn thấy anh mới sợ !
Ngày xưa, có
thể vì mê tín dị đoan, sợ
"ông bà quở", nên đặt tên xấu háy
hoặc tên
khác kêu riêng như Tửng, Cu Tèo, Thị Mẹt,..Ngày
nay, để gọi tưng
"cục cưng" con, cha mẹ thường
dùng danh từ hoa mỹ dễ thưong hơn như Tú
ti, Cà Na, Thiện, Mạnh.. hoặc
"trí thức" hơn vay mượn nước
ngoài "Rĩ" (Marie ), "Răng" (Henri ), "Rắc"
(Jacques
)...ngộ nghĩnh vui tay ghê!
Rắc rối và
buồn cười nhất là
việc cử tên, chẳng những
không được đặt
trùng mà còn đọc trại. Ví dụ tên
‘Đồ’ đọc ra
là ‘Đà’, đồ đạc
thành đà đạc, đồng hồ ra đồng giờ. Thời
quân chủ chuyên chế, trong thi cử cấm phạm
húy, viết trúng tên hoàng tộc chẳng những bị đánh rớt mà
có khi bị tru di . Dần dần những từ biến dạng ấy trở
thành thổ ngữ địa phương.
Ngoài ra, tên đẹp hay chưa đủ còn
tùy thuộc cách phát âm của miền,
vùng, địa phương.
Như thế là có khi nghĩ đúng, làm đúng, vẫn
sai. Ý đẹp, viết đúng, đọc
sai, tai hại! Một ví dụ tên
Long Các đẹp thế, mà
gặp phải người miền
Trung xướng lên thì lắm lúc cũng cười ra
nước mắt!
Tiếng Việt ta
thâm thúy thật, vậy mà đôi khi nghe ra cũng "ngậm đắng nuốt cay
thế nào"!
Do đó, các dấu tượng trưng
cho nốt nhạc âm hưởng cũng chiếm phần
quan trọng trong việc tạo sắc
thái, tính truyền cảm đặc biệt. Vậy viết đọc phải rõ
ràng, nếu không, nhầm lẫn, hiểu
sai, như
"Chữ
tài liền với
chữ tai một vần".
Chẳng hạn khi nghe câu : con cop cham
cham xuong hang, có thể nghĩ ra hai cách: con cọp
...(chấm chấm xuống
hàng), hoặc con cọp chầm chậm xuống
hang.
Ngày nay, để hội nhập với đời sống nước
ngoài, tên Việt thường được viết không dấu. Nếu
không biết trước thật khó
lòng mà đọc đúng, và bao hiểu lầm thắc mắc trật đường rầy xảy ra
như "Cụ" trơn tru
thành "Cu", "Ngũ"
quên ngã ra "Ngu"...lỡ khóc lỡ cười !
Nhớ chuyện tiếu lâm
mà có thật : Một du khách Mỹ thấy bảng
CAM DAI
BAY được
treo ở nhiều nơi
trong thành phố lớn, vị
khách tò mò nầy mới hỏi hảng du
lịch: “Ở Việt nam
tôi đã thăm Nha Trang Bay, Ha Long Bay,
còn Cam Dai Bay nầy ở đâu mà tôi thấy quảng
cáo nhiều thế?” . Ngẩn ngơ!
Ngoài ra xin nên hạn chế viết tắt tên, như người gởI,
nguờI nhận trên bao thư chẳng hạn vì
phần lớn mẫu tự ta
thường đuợc phiên âm hai cách, như chữ T đọc là
tê, tờ, nếu không người xướng
lên có cơ … á khẩu, người
nghe lắm lúc nghẹt thở thộn người:
NgườI
gởI : NBM (Anh Bê Em)
NgườI nhận: TQN (Tê Cu Anh)
Hơn thế nữa, dân ta vốn thích khôi hài thường hay nói lái, lối đá giò
lái "tuyệt cú
mèo", chưởng phong
khó đở, chất xúc tác biến mặt đổi màu nhanh chóng, trắng thành xanh đỏ, đen ra trắng bệch xám ngắt như tờ. Tên đầy nghĩa như ‘’Công’’,"Đức","Nhứt", "Thái",
« Đạo », .. chỉ cần thêm chữ đúng vận "hạp nhãn" đứng kề - ‘’công ngủ’’, đệ "nhứt cấp", trà "Thái đức", « Đạo cụ », là phản ứng xảy ra ngay!
Vả lại lối nói lái còn có thể áp dụng cho trên hai từ, trường hợp ba từ như Nguyễn Y Vân thành Vẫn như Nguyên hay Vũ Như Cẫn ra Vẫn như Cũ.
Vì thế chẳng những chỉ phải lưu ý đến tên đặt ra mà thôi mà cần nghĩ đến sự hòa hợp với ngay cả chữ lót và họ nữa. Tên Nghi mà có chữ lót là Đông
thành Đông Nghi, nói lái ra thành Đi ngông.
Tên Từ không được đi với họ Trần thành từ trần. Thật hi hữu khi đọc trên thiệp mời đám cưới
« Hai họ Từ Trần xin làm lễ thành hôn cho hai con Nghĩa
Trang… »
Bạn có thấy tiếng mình sao mà tinh tế lạ, tổ tiên ta thông minh tiến bộ biết dường nào!
Bao nhiêu lần bị xâm lăng lệ thuộc, tiếng vẫn còn trau chuốt đẹp hay hơn. Tên ngày cũ « An nam » lưu niệm, "Việt Nam" nay bốn biển biết uy danh ! Vốn đã trót
sinh trên trần thế, xin giữ tròn tên tuổi với quê hương. Gắng tiếp nối giống dòng Hồng Lạc, tên ta còn nước ắt mãi tồn vinh.
Cô Trần
Thành Mỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét