.

.

a

Hoa đào nở, chim én về, mùa xuân lại đến. Chúc quý thầy cô và anh chị em đồng môn năm mới Giáp Thìn : - nghìn sự như ý, vạn sự như mơ, triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc.
THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ, ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU - MỘT NĂM MỚI AN KHANG THỊNH VƯỢNG - VẠN SỰ NHƯ Ý

25 tháng 11 2021

So sánh ả đào Việt Nam và Geisha Nhật Bản....

 Tuy không có quan hệ tiếp biến văn hóa, nhưng điều thú vị là khi nói đến ả đào Việt Nam, người ta có tâm lý liên tưởng đến nàng geisha Nhật Bản và ngược lại.


Từ thế kỷ 16, Việt Nam và Nhật Bản đã có quan hệ ngoại giao kinh tế, thành quả là khu phố cổ Hội An – một di sản nhân loại. Song, quan hệ ngoại giao văn hóa giữa hai nước chưa có những sự kiện xứng tầm quốc tế. Trong tương lai, Việt Nam và Nhật Bản cần một đối tượng để đối thoại văn hóa, thông qua đó hai dân tộc biết được những điều mà họ có chung để cùng chia sẻ và chuyển hóa những giá trị văn hóa. Chúng tôi đề xuất hình tượng người ca nữ như một hiện tượng mà hầu như nền văn hóa nào cũng có từ rất lâu đời. Tuy không có quan hệ tiếp biến văn hóa, nhưng điều thú vị là khi nói đến ả đào Việt Nam, người ta có tâm lý liên tưởng đến nàng geisha Nhật Bản và ngược lại.

Với khái niệm ả đào và khái niệm geisha, hai dân tộc Việt – Nhật có chung một cách hiểu, đó là cách gọi biểu trưng cho cái đẹp, biểu tượng của văn hóa nghệ thuật dân tộc. Người Việt Nam hình dung geisha như một ả đào Nhật Bản, và có lẽ, để hiểu khái niệm ả đào, người Nhật sẽ cho rằng đó là geihsa Việt Nam.

Geisha (tiếng Nhật: nghệ giả – con người của nghệ thuật) là người nghệ sĩ vừa có tài ca múa nhạc, lại vừa có khả năng phục vụ nhu cầu văn hóa truyền thống Nhật Bản (trò chuyện, trà đạo, cắm hoa, thư pháp…). Trong lịch sử, geisha là một nghề khởi đầu là nam giới, song, do tính tất yếu của nghề nghiệp và tâm lý nhìn nhận của xã hội, người ta vẫn nghĩ geihsa là nữ nghệ giả, chỉ đề cập đến geihsa nữ – như một đối trọng so sánh với ả đào Việt Nam.

Ả đào là tên gọi (cổ xưa nhất) đã có từ đời Lý Thái Tổ (thế kỷ 11), theo truyền thuyết về Đào thị có nhan sắc, giỏi ca hát được vua khen tặng, nên dân gian gọi ca nương hát ca trù là ả đào nhằm chỉ người con gái đẹp, hát hay. Từ đây, ta có nội hàm của khái niệm: ả đào là chức danh của một nữ nghệ nhân hát ca trù, còn được gọi là cô đầu. Từ cô đầu thì có người cho là cô đào bị nói trệch đi ( là chữ nho có nghĩa là cô, ả đào có nghĩa là cô đào). Đỗ Trọng Huề thì cho là chữ đầu ám chỉ tiền hoa hồng (tiền đầu) mà các cô ca sĩ phải trả cho thày dạy hát của mình. Cô đầu lại cũng thường được dùng để chỉ những cô ca sĩ có nhiều học trò. Cô đầu thoát thai từ ả đào. “Tiếng cô thay tiếng ả cho rõ ràng, tiếng đầu thay tiếng đào để tỏ ý tán tụng bậc danh ca”(1).

Lịch sử ra đời của ả đào trước geisha đến ba thế kỷ nhưng khách của ả đào – nhà nho tài tử lại ra đời muộn hơn khách của geisha – tăng lữ và võ sĩ cũng ngần ấy thời gian. Nhà nho tài tử Việt Nam đến muộn mà còn ra đi sớm hơn võ sĩ Nhật. Nguyên nhân là do lịch sử phong kiến Nhật là một vương triều độc lập, đã sớm có những thành tựu văn hóa từ thời Heian (794-1192) – văn hóa của quý tộc, đến giai đoạn nội chiến của các lãnh chúa (1185-1603) tạm gọi là thời trung đại – văn hóa của các tu sĩ và võ sĩ.

Còn Việt Nam, sau 1000 năm Bắc thuộc, những triều đại được gọi là thịnh chỉ mới bắt đầu từ Lý – Trần (1010-1400), sau là Lê – Nguyễn (thế kỷ 15 – cuối thế kỷ 19). Sự ra đời của nhà nho tài tử gắn liền với sự phát triển của đô thị, mà ở Việt Nam do tình hình chiến tranh liên miên nên đô thị phát triển không mạnh và không liên tục. Vì thế tầng lớp thị dân Việt Nam cũng ra đời muộn hơn Nhật Bản (2).

Cũng như ả đào có tiền thân là con hát, ca nương (thế kỷ 2 trước CN), geisha khởi thủy với hai tiền thân là saburuko (cuối thế kỷ 7) nghĩa là người phục vụ và Shirabyoshi (thế kỷ 11) lúc đầu chỉ là tên một vũ khúc, về sau nó được đặt tên cho các cô gái thường biểu diễn vũ khúc này để phục vụ cho các võ sĩ (samurai). Vào cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 17, khi cấu trúc xã hội Nhật bị phá vỡ, sự sa sút của nhiều gia đình quý tộc khiến cho nhiều cô gái biến thành shirabyoshi để có thể tồn tại.

Và trong khi ả đào khai sinh liền với sự ra đời của ca trù từ thế kỷ 15 thì mãi đến thế kỷ 18I, geisha của Nhật Bản mới hình thành. Thế kỷ 18 ở Nhật là thời Edo (1603-1868) với văn hóa thị dân (chonin): thương nhân, nghệ sĩ, kỹ nữ, thời của những thành phố không đêm, của nhà hát, lữ quán, những cuộc vui thâu đêm suốt sáng.

Vào năm những năm 1945, nghề ả đào suy tàn thì nghề geisha cũng tàn lụi khi Nhật Bản dốc toàn lực vào Thế chiến II, dù sau đó có được phục hồi, thời hoàng kim đã qua đi vĩnh viễn. Đội ngũ geisha lại thiếu vắng người kế cận khi Quốc hội Nhật Bản ban hành luật cấm thiếu nữ chưa tròn mười lăm tuổi học làm maikô (tức geisha tập sự). Thống kê năm 1980 cho biết cả nước Nhật còn đến 17.000 geisha hành nghề, đến nay chỉ vào khoảng 200, chủ yếu ở cố đô Kyoto.

Như vậy, về mặt lịch đại, ả đào có lịch sử hình thành sớm hơn geisha rất nhiều. Nhưng xét về mặt đồng đại thì văn hóa đô thị của ả đào xuất hiện muộn và kết thúc sớm hơn geisha. Sự chênh lệch này ảnh hưởng lớn đến văn hóa ứng xử trong tiếp biến văn hóa của hai hình tượng này.

Không gian của ả đào là giáo phường và ca quán. Giáo phường là trường dạy nhạc, ca quán là nhà hát, về sau các ca quán kiêm luôn chức năng vừa đào tạo vừa kinh doanh nghề hát như nhà geishaNhà geisha còn đặc biệt hơn ca quán ở chỗ, nó được xây dựng theo mô hình kiến trúc nhà Minh – dành riêng cho việc ăn chơi, hưởng lạc. Các geisha tập trung hầu hết ở Kyoto, một cố đô với hình ảnh lặng lẽ, huy hoàng của một quá khứ, và thủ đô Tokyo với nhịp sống sôi động, ồn ào của xã hội công nghiệp. Các nàng sống tập trung tại một vài khu phố, người Nhật gọi là hanamachi (hoa nhai). Geisha thành phố (machi geisha) hoạt động tự do tại các buổi tiệc bên ngoài các khu phố giải trí, trong khi các geisha khu phố (kuruwa geisha) giải trí cho khách trong các buổi tiệc ở các khu phố giải trí.

Ca quán, cũng như nhà geisha, là không gian giải trí, không gian cảm hứng nghệ thuật, không gian làm việc (viết báo, xã giao, bàn việc kinh doanh…) của khách làng chơi. Không gian văn hóa geisha, cũng như không gian văn hóa ả đào, mang dáng dấp cung đình hơn dân dã, đó là không gian phòng, không có những tiết mục sôi động như ca vũ tạp kỹ. Vì thế, nhạc cụ cũng khá tinh giản, ả đào chỉ dùng đôi phách tre, geisha ngoài cây đàn shanmisen còn dùng sáo trúc và mấy chiếc trống, trống nhỏ tsutsumi vác lên vai, trống nhỡ ôkawa kê trên đùi, còn trống lớn taikô đặt cạnh người diễn.

Nhưng xét riêng từng khía cạnh, sự khác biệt cơ bản giữa ả đào và geisha là chủ thể văn hóa: một bên là văn hóa làng xã và văn hóa quý tộc phong kiến, còn một bên là văn hóa thị dân. Nguyên nhân là do sự khác biệt về giai cấp giữa ả đào và geihsa. Ả đào xuất thân từ giai cấp nông dân. Trong sinh hoạt đời thường của con nhà nông, ả đào ban ngày làm ruộng vườn hoặc chăn tằm dệt vải. Đến tối họ tới giáo phường để luyện tập đàn hát do quản giáp và mấy ả đào già nhiều kinh nghiệm chỉ bảo. Geisha xuất thân từ tầng lớp thị dân. “Con nhà gia thế sa cơ dấn thân vào chốn xa mã công khanh. Họ có giao ước với mụ chủ thời hạn làm việc, họ được tự do, không có một thế lực gì bắt họ phải theo ý muốn người khác được, ở phòng trà ấy, họ được giáo dục hoàn hảo”(3). Nhiều giesha nhận được sự nâng đỡ từ những gia đình thuộc tầng lớp thượng lưu, các dòng họ nổi tiếng.

Từ khác biệt cơ bản trên, ta hiểu văn hóa ả đào có nguồn gốc từ văn hóa tín ngưỡng tôn giáo dân gian, từ một nghệ nhân chuyên hát thờ ở đình làng về sau mới trở thành một cô đầu chuyên phục vụ giải trí cho quý tộc, trí thức. Trong khi đó, văn hóa geisha chỉ thuần túy là văn hóa giải trí, không dính dáng gì đến tín ngưỡng tôn giáo.

Song, ả đào và geisha đều tương đồng ở chỗ cả hai có một đời sống văn hóa theo những quy phạm nhất định. Họ bị cấm ăn mặc khó coi, phải mặc cùng một kiểu trang phục, tóc chải theo một kiểu đồng nhất, chỉ phục vụ những nhóm khách vài ba người và không bị ép buộc phải tiếp người khách nào mà họ không thích. Được yêu quý, trọng vọng, nhưng theo quy luật của nghề nghiệp, họ phải chôn chặt những khát khao thầm kín, ngay cả tình yêu trong thế giới đầy chuẩn mực.

Vì đối tượng khách của ả đào  geisha đều là nam giới nên khi đề cập hai hình tượng này không thể không xét đến khía cạnh văn hóa giới – mối quan hệ nam và nữ nhìn từ văn hóa xã hội.

Ở đây có sự tương đồng về cấu trúc văn hóa giới, nếu ả đào luôn đi cạnh văn nhân Việt Nam thì geisha không thể tách rời võ sĩ Nhật, cũng như thiền sư và kỹ nữ nói chung. Cấu trúc này không có gì thay đổi về bản chất, chỉ thay đổi về hình thức danh xưng, văn nhân xưa kia là nhà nho, hiện đại là trí thức, văn nghệ sĩ được gọi chung là quan viên; khách của geisha trước đây là võ sĩ thì ngày nay là khách thượng lưu, gọi chung là người bảo trợ (danna)…

Cấu trúc văn hóa này đã làm nên nét đặc thù riêng cho văn hóa ả đào và văn hóa geisha, giúp ta nhận diện ra đó là thứ văn hóa giải tríẢ đào và geisha đóng vai trò là người phục vụ văn hóa truyền thống (ả đào xướng thơ, hầu rượu), geisha phục vụ bằng nghệ thuật hát, thưởng trà, rượu, ngâm thơ… Qua đó ta thấy ả đào và geisha cũng có nhiều nét tương đồng về quan niệm mỹ học, triết lý nhân sinh. Văn hóa giải trí này tạo ra những điều kiện và phương tiện (ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu) cho mối quan hệ giao tiếp xã hội.

Như trên, ta thấy ả đào và geisha luôn bị đặt trong mối quan hệ phụ thuộc nhà nghề và phụ thuộc người đàn ông – khách chơi nghệ thuật. Theo truyền thống, ả đào không được kết hôn với người ngoài nghề. Geisha cũng không được kết hôn hoặc khi kết hôn thì phải kết thúc sự nghiệp.

Hệ quả của cấu trúc văn hóa đã tạo điều kiện cho nghề ả đào và geisha một khả năng giao tiếp rộng, ma lực hấp dẫn cao nên nó đóng vai trò định hình bộ mặt văn hóa xã hội. Tiền đề này đã tạo nên một cấu trúc võ sĩ và geisha trong lịch sử, văn chương và văn hóa. Hình tượng kỹ nữ đi vào văn học, như tác phẩm Xứ tuyết của Kawabata mang trong mình niềm mê hoặc đặc biệt về phụ nữ Nhật Bản – điển hình là giới geisha. Ở Việt Nam, tác phẩm Chùa đàn của Nguyễn Tuân cũng dấy lên sự nỗi ám ảnh huyền hoặc về tiếng hát của ả đào có khả năng cứu rỗi số phận một con người, một cộng đồng thôn Mê Thảo.

Mặt khác, nhìn vào cấu trúc văn hóa văn nhân – ả đào, võ sĩ – geisha, ta cũng phần nào hiểu được khả năng tiếp biến văn hóa của người Việt và người Nhật giai đoạn trung cận đại.

Cùng tiếp thu tư tưởng của Nho giáo Trung Hoa, nhưng Việt Nam và Nhật Bản có sự khác nhau. Để tiếp thu cách quản lý tập quyền của Nho giáo, Việt Nam thì rập khuôn, ngay cả giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh, chính quyền cũng dựa trên chỉ một bộ máy trung ương- triều Lê, nghĩa là bộ máy quan chế của ta hoàn toàn giống như Trung Quốc. Còn ở Nhật Bản thì theo một hướng khác. Thời trung đại, Nhật Bản đã có 300 lãnh chúa cát cứ, đứng đầu là một lãnh chúa mạnh nhất Mạc Phủ kiêm tể tướng, một đại tướng quân- shogun chứ không phải một bộ máy quan liêu như ở nước ta. “Vì không có bộ máy quan liêu nên nó không dựa vào kẻ sĩ mà phải dựa vào võ sĩ, không có đẳng cấp sĩ phu mà chỉ có thứ bậc võ sĩ”(4).

Ngoài Nho giáo, ả đào và geisha có chung ảnh hưởng Đạo giáo và tín ngưỡng thờ vật linh. Khởi thủy, geisha là những con đồng ở phái thần đạo, tiêu biểu cho chủ nghĩa khoái lạc – cũng đeo vàng dát ngọc, cũng tin thần linh, bất cứ nhà geisha nào cũng có mèo xứ, sành hay một con cáo – thần Inari, họ tin rằng cáo chạy nhanh sẽ mang những lời cầu khẩn của họ lên trời mau hơn (5). Ả đào thì thờ Thanh Xà đại vương và Mãn Đường Hoa công chúa (Đinh Lễ – Bạch Hoa) và các vị thần của Đạo giáo như Đông Phương Sóc, Lã Đồng Tân…

Bên cạnh đó, phần lớn các loại hình nghệ thuật ả đào và geisha đều tiếp thu cảm nghiệm của Phật giáo. Nghệ thuật hát ả đào lấy cảm hứng chủ đạo từ triết lý của nhà Phật. Nhiều loại hình nghệ thuật geisha sử dụng như: trà đạo, hoa đạo, hương đạo, thư pháp… cũng nằm trong trường ảnh hưởng của Phật giáo Thiền tông (6).

Cái đẹp của ả đào và geisha cũng ít nhiều tiếp thu từ cái nhìn mỹ học Trung Hoa, một hệ thống quan điểm về nghệ thuật làm đẹp của nữ giới theo hai hướng mỹ cảm: trau chuốt cầu kỳ đến mức điêu luyện; theo cái đẹp tự nhiên chân chất, mộc mạc nhưng sâu xa, ý vị (7).

Về mặt này thì Nhật Bản có ưu thế hơn Việt Nam vì tính duy mỹ là văn hóa truyền thống lâu đời của Nhật. Trong Cổ sự ký (Kojiki), huyền tích về thuở hồng hoang Nhật, Thái dương thần nữ Amaterasu là nữ thần của ánh sáng và sắc đẹp. Geisha được miêu tả cụ thể với hình tượng người con gái có làn da trắng xóa như búp bê sứ, đôi môi đỏ chót rực rỡ và đôi chân mày cong vút thanh mảnh đầy duyên dáng. Trang phục kimono: mùa nào các geisha cũng phải thắt lưng (obi) bằng tấm lụa thêu rực rỡ quấn mấy vòng quanh bụng và buộc nút sau lưng, trông như đeo cái trống cho nên còn gọi là nơ trống. Cho thấy, geisha có cả một nghệ thuật trang điểm và làm tóc.

Ở Việt Nam, cái đẹp của ả đào chỉ mang tính ước lệ tổng hợp qua mấy câu thơ của văn nhân xưa (khuyết danh): “Mặt tròn thu nguyệt / Mắt sắc dao cau / Vào – duyên khuê các / Ra – vẻ hồng lâu / Lời ấy gấm – Miệng ấy thêu – Tài lỗi lạc chẳng thua nàng Ban, Tạ / Dịu như mai / Trong như tuyết – nét phong lưu chi kém bạn Vân – Kiều”. Trang phục “đầu vấn khăn, mặt tô son, điểm phấn, tóc bỏ đuôi gà, mặc áo năm thân dài quá gối, màu xanh điểm hoa (có khi dùng màu khác), cài khuy bên phải, quần dài đen chấm gót như các tố nữ trong tranh tứ bình…”(8). Trong lúc diễn xướng, làm trò, ấn tượng ả đào để lại cho người xem là sự trang nghiêm, trông có vẻ thụ động, có phần âm tính hơn geisha.

Cái đẹp của ả đào tương quan với cái đẹp của geisha


 

Ả đào

Geisha

Ngoại hình

Tiếp thu mỹ học Trung Hoa

Xu hướng tự nhiên chân chất, mộc mạc nhưng sâu xa, ý vị

Xu hướng trau chuốt cầu kỳ, điêu luyện, khắc vàng, vẽ nét

Vẻ đẹp tổng quan

Như tranh dân gian giản dị, cổ điển dễ gần

Như búp bê sứ

giả tạo, xa vời, xa xỉ

Trang điểm

Hài hòa, chỉnh chu

Công phu, cách điệu (hát tuồng, mặt nạ, tóc giả)

Trang phục

Áo dài và áo tứ thân ( bình dân)

Kimono và nhiều thứ phụ kiện đắt tiền

Cử chỉ, điệu bộ

Thụ động, ít động tác, ít dùng phi ngôn ngữ

Dịu dàng, uyển chuyển, mềm dẻo, nhiều động tác và phi ngôn ngữ

Nội hình

Đức tính

Giỏi chịu đựng

Khéo chiều chuộng

Nhận thức

Cảm tính

Lý tính, thực dụng

Nghệ thuật

Thể loại

 

Đơn nhất: ca trù

Đa dạng: nhạc, thơ, văn, múa, trà đạo, cắm hoa, thư pháp…

Múa & nhạc cụ

Giản tiện: múa bài bông, nhạc cụ: đôi phách

Phong phú: múa cây tùng, cây bách, anh đào… nhạc cụ: đàn, sáo, trống…

Kỹ năng

Chuyên sâu

Bao quát, tổng hợp

Kết luận

Thiên về cái đẹp truyền thống

Kết hợp cái đẹp truyền thống và hiện đại, hơi đặc biệt, tạo sự thu hút, hiếu kỳ

Vấn đề mặc quốc phục cũng là một biểu hiện giữ gìn bản sắc của ả đào và geisha. Ngoài nghệ thuật, hình thức cũng là một cách thể hiện văn hóa cổ truyền: người hát trong trang phục truyền thống sẽ khác biệt rất nhiều so với người hát ăn mặc Âu phục.

Văn hóa tận dụng của geisha là tiếp thu các lợi thế của văn hóa Âu – Mỹ và phát huy nghệ thuật truyền thống để thu hút khách, phô trương sự lịch lãm, sang trọng. Chương trình Tokyo Rose thời Thế chiến II dùng giọng nữ tuyệt vời đã làm chao đảo tinh thần quân đồng minh. Kiharu Nakamura, một geisha nổi tiếng nhất với biệt danh geisha duy nhất nói được tiếng Anh, trở thành cầu nối về văn hóa giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ. nhiều nghệ sĩ và ngôi sao thể thao thế giới đã từng thưởng thức tài nghệ múa hát của Kiharu. Bà cũng chính là nguồn cảm hứng để Cocteau viết nên bài thơ Geisha.

Sự quan tâm ngày càng cao đối với geisha và ngoại hình đặc biệt của họ đã khơi lên nhiều hiện tượng văn hóa đại chúng ở cả Nhật Bản và phương Tây. Gần đây nhất là phong cách trang điểm kiểu geisha được đề xướng sau thành công và sự nổi tiếng của tiểu thuyết Hồi ức của một geisha và bộ phim cùng tên. Ca sĩ Madonna xuất hiện trên video âm nhạc Nothing Really Matters (1999) trong trang phục kimono cách điệu với trang điểm đậm màu như một geisha.

Ở Việt Nam, không có văn hóa tận dụng này, nguyên nhân chính là do tầng lớp trí thức theo xu hướng hoài cổ không nhiều. Những năm sau 1945, Mỹ ném bom vào xóm Khâm Thiên (Hà Nội), Nguyễn Tuân đã gọi đó là “hành động cư xử thô bạo với tiếng hát ả đào”. Suốt những năm chiến tranh chống Mỹ, tiếng hát ả đào tưởng bị lãng quên, thập 1980, tiếng hát ả đào mới được Trần Văn Khê giới thiệu ra quốc tế, đào nương Quách Thị Hồ mang vinh quang về cho đất nước với bằng danh dự của UNESCO, các nhà nghiên cứu dân tộc nhạc học trên thế giới bắt đầu bị mê hoặc bởi giọng ca độc đáo này. Có thể nói, ca trù được thế giới biết đến nhờ tiếng hát ả đào Quách Thị Hồ trực tiếp hoặc gián tiếp qua đĩa CD đầu tiên mà UNESCO phát hành có tên ca trù.

Đối phó với làn sóng Âu Mỹ hóa, bào mòn văn hóa truyền thống, chính quyền Việt Nam cũng như Nhật Bản có hai cách: cách tiêu cực là cấm hẳn nghề ả đào và geisha, cách tích cực hơn là tìm việc làm mới cho những nghệ nhân, nghệ giả này, đưa họ vào hệ thống quản lý, xem như một nét văn hóa cần bảo tồn. Cũng như ả đàogeisha cũng chịu áp đặt bởi văn hóa Âu Mỹ mà sản phẩm chính là khiêu vũ (9).

 

Phản ứng cá nhân trước thời cuộc, các ả đào Việt Nam chọn con đường mai danh ẩn tích, đi làm thuê… trở về với công việc nhà nông là nguồn gốc xuất thân của họ. Trong nhận thức, ả đào hành động theo cảm tính phụ nữ Việt Nam giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Lịch sử đã ghi nhận những chiến công của các ả đào như nàng ca nhi Đào Đặng lập mưu giết giặc Minh, các ả đào hạt Quảng Yên phá súng thần công giặc (10)… Còn geisha thì không tham gia chiến đấu, nhưng họ nhận thức bằng lý trí. Họ biết phát huy ưu điểm là sự cầu kỳ, giỏi thích nghi, khéo chiều chuộng, xa xỉ, khó gần (chỉ có giới quý tộc và doanh nhân mới trả nổi cái giá rất đắt để được gặp geisha). Nhưng điều đó lại càng khiến geisha trở nên hấp dẫn tính hiếu kỳ của mọi người hơn. Văn hóa Nhật còn cho geisha cái đặc quyền được lựa chọn đối tượng phục vụ. Vì người Nhật ưa thực tế hơn và sẵn sàng dẹp bỏ tính tự tôn để thích nghi với tình huống mới. Lối ứng xử này mang đặc trưng rất geisha.

Văn hóa ả đào và văn hóa geisha là hiện tượng có thật, đã từng tồn tại trong lịch sử hai nền văn hóa Việt – Nhật. Đó là văn hóa giải trí, hiểu đơn giản là hình thức mượn tiếng mỹ nhân để thưởng ngoạn nghệ thuật.

Là hiện tượng văn hóa nghệ thuật, đồng thời cũng là hiện tượng xã hội, Ả đào và geisha vừa sống trong môi trường chính trị xã hội hiện hữu vừa sống trong môi trường văn hóa dân tộc, trở thành hình tượng văn hóa của mỗi quốc gia.

Cần phân biệt rõ sự lựa chọn nào của ả đào và geisha là văn hóa và sự lựa chọn nào là phi văn hóa… để có cái nhìn khách quan và nhân văn khi đánh giá ả đào và geisha. Từ đó, hai bên có cách quản lý văn hóa tích cực, giúp phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc.

Hiện tại ở Việt Nam và Nhật Bản còn rất ít những ả đào và geisha thực thụ có được thành công như những gì mà tổ nghề của họ đã gây dựng nên. Thế giới văn hóa tao nhã của ả đào và geisha đang có xu hướng bị thu hẹp, ít mang tính truyền thống hơn để thay vào đó những hình thức giải trí phục vụ số đông. Cũng ít ai bận tâm đến văn hóa truyền thống của hai hình tượng này còn gì là bản sắc, có gì là tiếp biến văn hóa hay không. Chính vì vậy, nét sâu sắc, ý vị của ả đào và nét huyền bí của geisha cần phải được khai thác ở nhiều góc độ.

  NGUYỄN HOÀNG ANH TUẤN / TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT

———————————————-

Chú thích:

1. Vũ Bằng, Hát ả đào – lịch sử ra sao? Ông tổ là người nào? Mà ả đào, cô đầu và nhà tơ có khác nhau không?, Tạp chí Văn học số 138-1971, tr.3-15.
2. Trần Đình Hượu tuyển tập, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.640.
3. Châm Vũ, Nghệ sĩ Việt Nam và geisha Nhật Bản, Tạp chí Văn hóa nguyệt san số 7-1965, tr.1116-1173.
4. Trần Đình Hượu, Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002, tr.278.
5, 9. Vũ Bằng, Geisha, Tạp chí Trung Bắc chủ nhật, số 39-1940, tr.11-15.
6. Hợp tuyển văn học Nhật Bản, Nxb Lao động, Hà Nội, 2010, tr.590.
7. Đỗ Văn Khang, Nghệ thuật học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.105.
8. Dân ca Thanh Hóa, Nxb Văn học, Hà Nội, 1965, tr.36-38.
10. Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Việt Nam ca trù biên khảo, Nxb TP.HCM, tr.149.
11. Arthur Golden, Đời kỹ nữ – hồi ức của một geisha, nxb Văn học, Hà Nội, 2005, tr.607.



Những người Việt có số phận kỳ lạ: Người Việt đầu tiên đến nước Mỹ 
                                                                                            - Hà Đình Nguyên


Hiện ở P.Long Bình, Q.9, TP.HCM có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm. Có lẽ ít ai biết đây chính là người đã đặt chân đến nước Mỹ cách đây hơn 170 năm.

Câu chuyện bắt đầu từ năm 1842 (năm Minh Mạng thứ 23) ở làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao (Phú Thọ) có một chàng thanh niên 21 tuổi tên Trần Trọng Khiêm phạm trọng án. Số là người vợ mới cưới của anh bị tên chánh tổng ép bức, làm nhục rồi sát hại. Căm giận, Trần Trọng Khiêm quyết báo thù. Sau khi tương kế tựu kế giết chết tên vô lại, anh trốn xuống Phố Hiến (Hưng Yên) rồi xin vào làm việc trên một chiếc tàu buôn ngoại quốc, khởi đầu cho những chuyến phiêu lưu khắp năm châu bốn biển.
Suốt 12 năm (1842 - 1854), Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất từ Á sang Âu: Hồng Kông, Anh, Hà Lan, Pháp... Nhờ trí thông minh, đi đến đâu anh cũng cố gắng học tiếng địa phương. Năm 1849, anh đặt chân đến thành phố New Orleans (Mỹ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến Mỹ, Trần Trọng Khiêm bấy giờ 28 tuổi, cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Viễn Tây. Trong gần 2 năm, Lê Kim sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Anh đã tham gia đoàn đào vàng do một người Canada tên Mark khởi xướng. Để tham gia đoàn này, tất cả thành viên phải góp tiền mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Lê Kim góp 200 USD vào thời điểm năm 1849. Do biết nhiều ngoại ngữ, anh được ủy nhiệm làm liên lạc cho thủ lĩnh Mark và làm phiên dịch cho những thành viên trong đoàn gồm tiếng Hà Lan, Trung, Pháp... (trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene Lefebre (nhà xuất bản Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Canada, Anh, Pháp, Hà Lan, Mexico...). Anh nói với mọi người rằng anh còn biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt nhưng không cần dùng đến. Lê Kim cũng nói anh không phải người Hoa nhưng đất nước của anh nằm cạnh nước Tàu.
Lê Kim và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua dãy núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là Oh! Suzannah (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc...). Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng, nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm - họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ. Sốt rét và rắn độc cũng đã cướp đi quá nửa số thành viên trong đoàn.
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người tháo vát, xông xáo lại biết nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được làm phóng viên tự do cho nhiều tờ báo như: Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Lê Kim hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng làm việc ở những mỏ khai thác vàng là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Nhiều bài báo của anh đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A.Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, anh đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, tướng Sutter bị bệnh tâm thần và sống lang thang ở các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không ai đoái hoài đến.
Khi gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 USD và chê trách thái độ của người dân San Francisco cũng như nước Mỹ đối với người khai phá ra vùng đất San Francisco.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng anh cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
“Người Minh Hương” cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương (người gốc Hoa, không chịu thần phục nhà Thanh nên di dân sang Việt Nam - NV) đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai.
Trong bức thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Mỹ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường.
Chưa đầy 10 năm sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, Lê Kim từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười, trở thành một vị tướng giỏi. Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De La Grandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”. 

(Dựa theo tài liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê 1912 - 1984)


Những loài hoa lan cosplay động vật cực đỉnh, gây lú lẫn đến mức không phân biệt được đâu là hàng "pha-ke"


Hoa lan chim

Khi trông thấy bức ảnh dưới đây, điều đầu tiên bạn nghĩ đến là gì? Một chú chim đậu trên cành được photoshop giống bông hoa, hay là một bông hoa được ai đó "trêu đùa" vẽ thành hình chim chóc?

Bông hoa lan "giả dạng" chim họa mi siêu hoàn hảo.

Thật đáng tiếc là không có đáp án nào đúng cả, bởi đây hoàn toàn là một kiệt tác của mẹ thiên nhiên! "Chú chim" mà bạn nhìn thấy trong ảnh đích xác là một nụ hoa lan sắp nở rộ, với phần lông tơ mềm mịn như thật ở đài hoa. Giống hoa này có tên là Magnolia Denudata, thuộc họ mộc lan có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Hoa lan chim có màu hồng với mùi hương cam chanh, duyên dáng và uyển chuyển giống chim họa mi đến mức ai cũng phải thốt lên kinh ngạc. Loài lan này có lịch sử tồn tại khá lâu đời, được trồng từ hơn 1000 năm trước trong khuôn viên các ngôi chùa Phật giáo tại Trung Quốc. Hoa mộc lan được xem như biểu tượng của sự tinh khiết nên ở thời nhà Đường chúng cũng được trồng dọc theo cung điện của hoàng đế.






Loài hoa "gây lú" người nhìn với tạo hình siêu chân thực.


Hoa lan chim có phần đầu mô phỏng y hệt mắt và mỏ chim, phần nhụy lấp ló bên trong vô cùng sinh động.

Ngày nay, tại nhiều công viên, khu vườn và thậm chí là những dải cây xanh dọc theo các con phố ở Bắc Kinh, bạn có thể tìm thấy những bông hoa lan xinh đẹp mô phỏng hình chim này. Trông chúng cứ như một đàn chim nhỏ đậu lấp ló trong những tán cây, còn biết nghiêng đầu làm duyên với người qua đường nữa.

Hoa lan bạch hạc

Phải nói rằng thiên nhiên quá ưu ái khi sản sinh ra loài hoa cao quý như phong lan, trong số đó có một giống lan sở hữu hình dáng y hệt chim hạc trắng - chính là lan bạch hạc. Khi nở bung ra thì mỗi bông lan trông như chú hạc đang sải cánh bay lên trời, màu trắng tinh khôi và có phần tua 2 bên tinh xảo như lớp lông vũ của chim thật.

Lan bạch hạc mô phỏng đầy đủ bộ phận của một chú chim, từ phần đầu, cổ dài cho đến đôi cánh.

Lan bạch hạc có tên khoa học là Pecteilis radiate, tên gọi khác là Diệc bạch. Loài lan này được trồng nhiều ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Thân cây cao khoảng 15cm đến 50cm, mọc thành từng bụi lớn, lá dài thanh mảnh màu xanh.

Hoa lan bạch hạc rất thơm và nở lâu, có thể duy trì tận 1 tháng. Mỗi ngọn cây có thể sản sinh từ 1 đến 3 bông hoa, chụm vào nhau như đàn hạc đang múa khá sinh động. Hoa có đường kính khoảng 3cm và thường nở vào khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 8.



Lan bạch hạc thích hợp với những vùng có khí hậu ôn hòa. Ở Việt Nam hiện nay cũng có nơi trồng lan bạch hạc, tuy nhiên loài lan này đang bên bờ vực tuyệt chủng, rất quý hiếm và có giá trị cao.

Hoa lan ong

Nếu đã ngạc nhiên với loài lan chim và lan hạc ở trên thì loài lan hình con ong này sẽ làm bạn bất ngờ hơn nữa. Lan ong có tên khoa học là Ophrys apifera, chiều cao khoảng 30 cm, phân bố chủ yếu ở miền nam nước Anh, Ai-len và xứ Wale. Hoa lan hình ong rất dễ nhận dạng bởi mùi hương và màu sắc độc đáo của chúng. Những đài hoa lớn mập mạp, cánh hoa nhỏ màu hồng, viền cánh hoa màu nâu khá nổi bật, giống hệt một bé ong đang cười hồn nhiên.

Xin chào, mình là hoa lan ong đây!

Các loài côn trùng thụ phấn như ong đực thường bị hình dáng giả mạo của hoa lan "đánh lừa". Sau khi tiếp xúc với hoa, lũ côn trùng sẽ bị các hạt phấn hoa dính vào cơ thể, mang đi khắp nơi để thụ phấn. Xét tổng thể thì mỗi bông lan ong đều có diện mạo vô cùng yêu đời!




Nhìn có khác gì đàn ong thật đang hút mật đâu cơ chứ!

Dù nhìn thẳng hay nhìn nghiêng thì hoa lan ong đều đốn tim người khác vì màn cosplay "cưng xỉu", lại còn có màu vàng và lớp lông tơ giống y xì ong mật nữa! Đang đi dạo trong rừng mà gặp những bông lan ong đang tươi cười hớn hở thì đảm bảo không ai cưỡng nổi sức hút của chúng.

Hoa lan "vịt trời bay"

Flying Duck là giống phong lan nhỏ cao khoảng 50cm, có tên khoa học là Caleana Major, mọc chủ yếu ở miền đông và miền nam Australia như Queensland, Tasmania, Victoria, New South Wales... Hình dáng loài hoa này trông giống hệt một chú vịt đang sải cánh chuẩn bị bay lên trời, rất phóng khoáng và chân thực.

Cận cảnh giống lan "bắt chước" vịt trời có chiếc mỏ sao y bản chính.

Hoa lan vịt thường xuất hiện vào khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, khi nở ra sẽ có màu tím, đỏ thẫm và xanh lá. Cây lan vịt có thể cao đến nửa mét nhưng hoa của nó chỉ có kích thước khoảng 1,27 - 1,9 cm bằng cỡ ngón tay.



Loài hoa lan nhỏ bé nhưng lại có tạo hình mô phỏng dáng vịt bay vô cùng sống động.

Hiện tại lan vịt được xếp vào danh sách quý hiếm cần được bảo tồn tại Úc vì số lượng ít và môi trường sống khá đặc hữu. Rất nhiều người từng thử mang giống hoa lan vịt đi trồng tại nơi khác, song loài lan "sang chảnh" này đều không sinh trưởng được. Nếu muốn ngắm và sờ tận tay hoa lan vịt thì chỉ có cách bay sang Úc thôi!

Lan "mặt khỉ"

Nghe thật hài hước nhưng đúng là thế giới thực vật có một loại cây mô phỏng lại hình mặt khỉ. Đó là phong lan mặt khỉ với nhiều hình dạng khác nhau, nhưng đặc điểm chung khi nở là giống mặt lũ khỉ vô cùng!



Ngạc nhiên chưa, hoa lan lại nở ra chiếc mặt khỉ nè!

Một số giống lan mặt khỉ chỉ mọc tại nơi có địa hình cao thuộc những khu rừng ở Peru, Colombia và Ecuador, trong khi một số khác con người có thể nuôi trồng được nhưng không dễ dàng, bởi vậy nên giá thành loài lan này khá đắt đỏ.

Các cánh hoa và tua của chúng có thể dài ngắn khác nhau, nhưng phần nhụy thì giống hệt mặt chú khỉ! Nhìn ngộ nghĩnh "hề hước" thế thôi chứ hoa lan mặt khỉ lại tỏa mùi hương cam chín vô cùng ngọt ngào, hấp dẫn các loài côn trùng khác ghé thăm, hỗ trợ cho quá trình thụ phấn.




Tạo hóa thật là thú vị!

Lan mặt khỉ có khả năng nở hoa quanh năm. Hiện nay loài hoa này được liệt vào danh sách rất hiếm vì đặc tính sinh thái khác biệt chỉ phát triển ở vùng núi, nơi nhiệt độ ổn định, độ ẩm cao, khí hậu mát mẻ quanh năm.

Posted by: lpk 116

 


 


 


 


 


 


 


 

 

 

 


 




Không có nhận xét nào:

CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU SÓC TRĂNG THAM QUAN, ỦNG HỘ HOANGDIEUTRUONGXUASAIGON.BLOGSPOT.COM. CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM NHIỀU SỨC KHỎE, THÀNH CÔNG TRONG CÔNG VIỆC.