Vợ chồng anh Lộc chị Tú quen với chúng tôi đã lâu. Lộc Tú là một cặp rất xứng đôi vừa lứa. Họ nhỏ người và nói tiếng Huế cũng nhỏ nhẹ như nhau. Vợ tôi nói họ giống nhau như hai anh em ruột chớ không phải vợ chồng. Tôi nói: "Anh đọc trong sách thấy có nói vợ chồng ăn ở lâu năm thường giống nhau".Vợ tôi cười rồi giải thích: "Họ sống chung trong một ngôi nhà, ăn uống theo một cách, lâu quá tất nhiên phải giống nhau."
Từ hồi tháng mười một năm ngoái, mấy người cuốc rẫy ở ven rừng Ngã Bát không ngớt bàn tán xôn xao:
- Con heo Khịt về đây rồi. Nó lớn bằng con bò con lận mà.
- Phải! Tôi nghe danh nó từ lâu. Chú vợ của tôi ở Rạch Ruộng có nói lại: nội một đêm, nó ủi phá gần hai chục công rẫy khoai mì. Củ lớn ăn đã đành, củ nhỏ cũng không chừa.
- Sao không đâm nó? Thợ săn ở dưới Rạch Ruộng coi bộ dở quá, chưa xứng đáng là thợ rừng. Rầu lắm. Coi chừng con heo Khịt phá hại mùa khoai ở xóm mình. Nó đâu phải cọp mà mình sợ!
- Nói bậy đi. Chừng nào con heo Khịt phá hại, đụng chạm tới tài sản của mình thì hãy hay. Nói trước, xui xẻo lắm. Thợ săn ở Rạch Ruộng giỏi lắm chớ. Một người bị đổ ruột. Một người khác bị tét đùi. Phen đó, con heo Khịt mắc bẫy dây chì. Vậy mà nó tẩu thoát được.
- Bằng cách nào?
- Nó cắn một khúc giò, bỏ lại coi chơi. Khúc giò còn dính trong cái vòng dây chì. Coi mà phát ớn. Nó cắn giò nó cho đứt, một mình nó đánh chết bốn con chó săn. Tôi đoán chừng con heo Khịt này ít nhất đã bảy - tám tuổi, nanh dài trên một tấc, mình mẩy nổi dấu chì. Thôi chuyện đâu còn đó. Nó chưa tới nhà mà bàn tán hoài, ngán lắm. Cứ lo làm ăn cho vợ con nhờ.
Chuyện ấy thấu đến tai ông Hai Cháy và ông Năm Tự. Vốn là thợ săn chuyên nghiệp, hai ông giữ vẻ mặt trầm tĩnh nhưng làm sao che giấu được bao nhiêu nỗi lo âu áy náy trong lòng.
Tháng này nhằm mùa hạn, rừng khô nước, heo rừng không ngủ nơi nào nhất định, chi bằng chờ lúc Sa trại chủ mưa, nước nổi chừng ba tấc, heo rừng phải tìm nơi gò đất cao ráo mà ngủ, dễ tìm tông tích nó. Nhưng phải đề phòng! Mặc dầu mình nặng nề, chân nhỏ thó, heo rừng lội nước khá nhanh. Ðối phó lại, thợ săn nên tìm loại chó săn biết lội nước. Ðã có người chống xuồng cản chận đầu con heo rừng đang lội. Heo thản nhiên, hụp đầu xuống rồi hất lên như cõng vào chiếc xuồng nọ lên vai.
Ông Hai Cháy đến nhà ông Năm Tự mà nói:
- Mình ăn thịt hơn trăm con heo rừng. Nhưng mà chuyến này coi bộ khó nuốt.
Năm Tự cau mày:
- Sao vậy? Tôi dọ kỹ rồi. Nó thành danh con heo Khịt vì nó dữ, khi đổ quạu là sôi bọt mồm, khịt lên một tiếng lớn. Vậy thôi. Mình chưa ngán nó...
Ông Hai Cháy đáp lại chậm rãi:
- Bà con ở Rạch Ruộng cho biết: nó là heo độc giác. Theo chữ nho, chẳng hiểu nanh heo kêu bằng gì. Mình tạm kêu là"giác" đi. Trâu độc giác, voi một ngà, heo một nanh và ... người một mắt đều là thứ dữ.
Năm Tự im lặng:
- Ờ! Nếu con heo Khịt lên tới xóm này, nên lo liệu...
- Ðánh nó cho chết chớ lo liệu cái gì. Tôi dám liều chết nếu nó là heo Khịt. Rủi gặp heo nhỏ, tầm thường thì uổng công quá. Năm nay, gần sáu mươi tuổi rồi, tôi làm biếng lắm.
Năm Tự nói nhanh:
- Miễn là ông anh đi theo để làm quân sư, thằng em này vui vẻ ăn thua. Ông anh cứ nhường cái bổn phận đó cho em. Em nhờ bà con dọ thám thử.
Giết heo là chuyện khó. Rình xem heo là chuyện dễ. Ðêm đó, theo lời yêu cầu của Năm Tự và Hai Cháy, một đám con nít xúm nhau rình bên giồng khoai mì đã bị heo phá hại đêm trước. Ðêm sáng trăng. Mù sương rắc xuống nhỏ từng hạt trắng mỗi lúc thêm dày. Biết chống muỗi, vắt, lũ trẻ xúm nhau ngồi quanh gốc cây tràm. Cảnh rừng đêm mơ hồ. Ngồi hồi lâu không thấy gì lạ, lũ trẻ ngóng lên trời nhìn sương mù đang trôi gờn gợn như chất gì lỏng lẻo. Thích chí quá. Như ngồi dưới đáy biển sâu mà lớp sương kia là sóng gió trôi trên đầu. Nhìn mãi sanh chán. Vài đứa ngủ gục ngáy to tiếng.
Bỗng đâu sậy đế gãy nghe rôm rốp. Rồi một bóng đen lộ ra đứng sát bụi mì ngóng mỏ rồi quay lưng, chạy về phía rừng tràm.
Lũ trẻ lập tức cho ông Năm Tự hay:
- Nó rồi! Nè ông Năm, nó như con bò con. Tưởng sao chứ vậy tụi tui đâu sợ. Nó chạy cong đuôi.
Ông Năm cười:
- Tại tụi bây đứng trên gió, nó đánh hơi được. Nó đâu sợ, nó xáp tới nhưng nó quay lưng vì sợ sụp nhầm bẫy hoặc hầm hố.
Nghe đến sáng kiến làm cần bẫy, bọn trẻ mừng quýnh. Vài đứa có kinh nghiệm lập tức bơi xuồng ra chợ Thới Bình để mua dây chì làm vòng bẫy. Gặp thầy đội kiểm lâm có mang súng, chúng nó mời thầy vô xóm Ngã Bát để bắn con heo Khịt. Nghe tin ấy, ông Năm vô cùng mừng rỡ. Nếu bắn được con heo ghê tởm ấy, ông khỏi ra tay. Vả lại, bắn sớm chừng nào hay chừng ấy. Từ bây giờ cho đến mùa mưa. Khi thời cơ thuận lợi. Còn năm - sáu tháng nữa lận. Biết đâu tới chừng đó; con heo Khịt sẽ bỏ xóm Ngã Bạt, sau khi phá hại mùa màng.
Trời chạng vạng.
Thầy đội kiểm lâm tới xóm. Ðêm đó, thầy ta hăng hái lắm vì mới vừa mượn được cây đèn pin , loại năm pin của ông sếp kiểm lâm. Dịp may để thầy ta luyện tập về cách săn đèn!
Lại một đêm đầy sương, thứ sương mù khét lẹt, lạnh lẽo của rừng tràm U Minh khi mặt trời vừa chen lặn. Thầy đội mang đèn, ánh sáng chói mạnh tới trước soi một vòng tròn thấy rõ rệt từng nhành cây chiếc lá từng con muỗi.
- Tao làm gì thì làm. Tụi bây đừng nói chuyện. Ðứa nào sáng mắt, coi chừng tiếp với tao. Hai đốm đỏ tức là con mắt ông hổ. Nếu hai đốm vàng tức là mình chiếu ngay mắt con heo Khịt. Tao nghe đồn đãi như vậy.
- Kìa! Hai đốm vàng hiện ra.
Thầy đội từ từ bước tới.
Một bước rồi hai bước.
- Ðùng!
Súng nổ chát chúa, xé rừng. Một tiếng kêu rống. Lạ quá! Tiếng rống ấy nghe một chỗ và con thịt run rẩy, chẳng vang ra tiếng... khịt nào cả. Chừng xúm lại coi thì ô hô, thầy đội vừa bắn trúng một con heo rừng bé tí teo vừa mắc bẫy, chân còn treo lủng lẳng trên cây cần. Làm sao bây giờ. Ai dám gỡ nó xuống? Âu là bồi thêm một phát nữa.
Ðằng xóm, ai nấy đều thức giấc, chờ kết quả. Sau khi nghe hai tiếng súng, họ đốt đuốc, chạy tới nơi, hô to:
- Rồi rồi. Xong rồi. Con heo Khịt đi đời!
Chừng đụng đầu với con heo nhỏ bé, ai nấy cười ngả nghiêng.
° °
°
Ông Năm Tự đổ quạu:
- Làm chuyện bá lạp! Mấy đứa con nít thì rình trên gió. Người lớn thì bắn trúng con heo"hà nàm" mắc bẫy. Không khéo, ai nấy là hề hạng bét. Bà con ở dưới Rạch Ruộng hay được là cười cả đám, chê đất này thiếu nhân tài.
Ông uống chút xíu rượu đế rồi thét to:
-"Vực một" đâu?
Từ ngoài sân, một con chó săn chạy vào đứng ngay trước mặt ông, phía tay mặt.
-"Vực hai" đâu?
Con khác chạy vô, đứng im bên trái.
-"Vực ba"!
Nó đứng ngoan ngoãn phía sau, và con chó"Vực Tư" giành góc còn lại. Cái bộ ván nhỏ bé mà ông đang ngồi trở thành cái ngai vàng.
Vỗ đầu từng con, ông bảo:
- Hồi nào tới giờ, tụi bây ở nhà, chưa bao giờ ra trận đủ bốn đứa. Mai này, Vực một, Vực hai phải ứng phó cho lanh:"Vực" là cánh, mỗi đứa là một cánh quân. Vực ba, Vực tư cũng vậy. Dưỡng sức đi. Thôi đi ngủ sớm, mùa nắng khó săn heo lắm. Ðây là thể diện của ta.
Bốn con chó vẫy đuôi, ra chiều hăng hái. Chúng ra ngoài hàng ba, trước khi nằm xuống, mỗi con đều quay tròn đôi ba vòng, nhìn kỹ chung quanh. "Chó ba khoanh mới nằm." ông Năm Tự lẩm bẩm như vậy, tự hào cho rằng chó săn của mình là giống tốt nhứt. Còn lại năm - sáu con chó nhỏ đứng xớ rớ chung quanh bộ ván, sủa gâu gâu, như kêu nài, bất mãn, ông nói:
- Còn tụi bây nữa. Chưa tới tuổi ra nghề. Tao lo cho tụi bây mà. Ði chỗ khác!
Gà gáy dứt canh hai. Sương lùa vào đầy nhà, vậy mà ông Năm Tự chưa nhắm mắt ngủ. Dựng đứng gần vách, ông ngắm nghía rõ ràng kìa... Một cây lao cổ phụng, một cây lao bay một cây mác thông. Tất cả khí giới này từ bảy tháng qua chưa xài tới mà vẫn sáng chói, không một bợn sét, nhờ ông lau chùi hằng ngày.
"Hừng đông, mình đi kêu Mười Hy phụ lực với mình. Khỏi cần bận rộn tới ông Hai Cháy, ổng già rồi."
Nghĩ vậy, ông Năm Tự ngủ yên. Ông có biết đâu là sự bố trí chu đáo ấy không được đúng với tình thế và đem lại nhiều hậu quả mà ông không đoán nổi.
° °
°
- Tu... Tu... u...
Còi vừa túc lên. Bốn con chó Vực và năm con chó săn nhỏ bé đồng hè nhau chạy miết vô khu rừng tràm gáp ranh với đám rẫy khoai mì. Ông Năm Tự nói với Mười Hy:
- Chú Mười thấy chưa! Chó mà ăn cơm nguội thì lanh lẹ. Ăn cơm nóng, nó hư lỗ mũi đánh hơi hở ẹt. Cây lao bay với cây lao cỏ phụng của tôi đây nè chú cầm dùm. Tôi hô lên cây nào chú nhớ đưa cây đó cho kịp.
Chim rừng hót vang. Bước chân của hai người dẫm lên mớ lá vàng ẩm ướt. Muỗi, bù mắc... động ổ bay lên. Họ chen vào khoảng giữa chật hẹp mấy gốc tràm chòi. Nắng lên chui vào vòm cây lộ ra những đốm vàng tươi. Cá lóc, cá trê mắc cạn lăn tròn trên bùn nọn, mọi khi hễ gặp mồi nhậu thì hai người bắt liền. Hôm nay có khác. Ông Năm Tự thỉnh thoảng tháo khăn trên đầu, bịt lại chặt hơn, quần xà lỏn được vo lên sát vào bắp đùi. Ông nhướng mắt:
- Lâu quá vậy!
Rồi túc còi. Trong phút giây đàn chó gom lại. Ông căn dặn:
- Ðừng sủa bậy nghe! Tụi bây gặp trăn sủa cách khác, gặp rùa sủa cách khác. Giỏi lắm. Nhưng bữa nay, khi nào gặp heo rừng thì hãy sủa. Làm động rừng con Khịt đi xa.
Dứt lời, bầy chó tản ra. Hai phút sau, phía Lung Cây Kè, có tiếng chó sủa to, ba tiếng còi túc lên liên hồi. Ông Năm Tự và Mười Hy vạch lau sậy, chạy đến.
Con heo Khịt đứng sững, hai chân trước cao nghệu, mình mẩy đen thui, hươi nanh. Tiếng đồn không sai: nanh dài trên một tấc, con heo Khịt như con bò nhỏ, mớ lông gáy dựng lên vàng hực, lấp lánh.
- Vực một!
Ông Năm quát to.
Con Vực một nhảy vô cắn chân phía trước, bên hữu của con Khịt. Con Khịt vừa quay đầu là ông Năm ra lịnh:
- Vực hai!
Con Vực hai xốc tới cắn chân trước, bên tả. Con Khịt trở mình ngó phía sau tìm cách thủ thế, lui vào lùm cây!
- Vực ba! Vực tư!
Bị vây bốn góc, Khịt đứng nhóng lên. Thật ra răng của chó dầu bén nhọn nhưng làm sao cắn lủng da nổi chì của con Khịt được. Con Khịt lại đầy đủ kinh nghiệm: đây là thợ săn lão luyện và bầy chó hung hăng.
Nó tìm cách chạy tới. Mười Hy trao ngọn mác cho ông Năm Tự. Ông Năm ghìm ngọn mác trước ngực.
Heo Khịt thối lui, dùng hai chân sau bươi đất làm cái hố nhỏ, tạm che khuất cái mông dưới đất để hạn chế sự tấn công của Vực ba và Vực tư. Nhưng đất cứng quá. Nó quỳ hai chân sau. Mấy con chó nhỏ bao vây, đứng ngoài xa, sủa vang lên nhưng hưởng ứng, thúc hối bốn con Vực đang quyết chiến.
Bỗng nhiên, con heo Khịt thở mạnh nghe... khịt một tiếng. Ông Năm Tư thối lui. Heo Khịt trợn mắt trắng, miệng sôi bọt, đang lướt qua phía Vực một, bất chấp Vực hai.
Lẹ như chớp, con chó Vực một nhảy dựng đứng lên không trung ngang tầm đọt sậy. Nó vừa rớt xuống là con heo Khịt chĩa nanh lên, hứng ngay bụng.
Vực một giãy đành đạch, lủng ruột. Thừa cơ hội ấy con Khịt phá vòng vây, chạy nhanh.
Thấy con chó thân yêu vừa thiệt mạng, gan mật ông Năm Tự sôi lên. Chụp ngọn lao bay trong tay Mười Hy, ông phóng mạnh, buông tay. Ngọn lao ghim vào ngực con Khịt.
Nó mang ngọn lao mà chạy.
Nhanh như chớp, ông Năm và cây lao cổ phụng - Loại lao cong, giống như cổ con phụng, có ngạnh như cái mồng - Mũi lao ghim vào hông con Khịt, đúng như sự tính toán của ông.
Bị đau điếng, con Khịt chạy nhanh, bất chấp cây cối, lau sậy, gò nỗng, ao vũng. Bầy chó sủa vang, cố chạy cho nhanh hơn để chặn đầu, cản mũi con Khịt. Nhưng may quá! Ông Năm Tự nói với Mười Hy:
- Nó chịu trận rồí
Mười Hy hơ hãi:
- Nó chạy như vầy, làm sao chịu trận. Bầy chó của mình đuối sức rồi.
Ông Năm Tự nói:
- Kìa! Cây lao cổ phụng này... hay quá. Con Khịt chạy không lâu đâu... Mình ráng theo nó cho kịp.
- Làm sao theo kịp được? Nó mất dạng rồi. Mấy con chó làm sao dám xáp vô để ăn thua?
- Thằng Mười này dở hơi quá. Chưa biết cây lao cổ phụng sao?
Chó cứ sủa, ngày càng xa, xa dần. Con Khịt đã khéo léo chọn phương hướng, tìm nơi rậm rạp mà chui, mà nhủi. Trong khi đó, hai người thợ săn chạy chậm hơn, và chạy vòng quanh tránh mấy bụi chà là gai. Gai chà là đâm nhức nhối, mỗi bẹ chà là là một cái bàn chông.
Chó sủa rộ lên, càng gần, Mười Hy nói:
- Coi chừng! Hay là con Khịt trở lại ăn thua với anh em mình. Còn cái gì không!
Ông Năm Tự nói gắt:
- Bộ thằng Mười mất trí rồi sao? Có ba cái"bửu bối," xài hết hai rồi. Còn cây mác thông này mà thôi.
- Tôi ngán lắm. Tôi... chạy à! Hai bàn tay không, làm sao tôi dám đứng lại.
- Ai biểu mày ăn thua với nó. Ðứng ngoài xa mà coi. Chạy mau. Câu lao cổ phụng"ngon" rồi đó!
Phía trước mặt họ, con heo Khịt xuất hiện. Ngọn lao cổ phụng gồm hai bộ phận rời: Lưỡi và cán. Hai bộ phận này dính nhau nhờ một sợi dây dài. Lúc phóng tới, lưỡi và cán dính nhau, tạm thời nhờ cái khâu lỏng lẻo. Vì nhúc nhích, lưỡi cứ ghim vào hông con Khịt trong khi cái cán sút ra, tòn ten, lê lết trên mặt đất, có sợi dây nối liền.
- Nó kìa!
Ông Năm Tự la to trong khi Mười Hy sợ sệt. Cái cán lao bị kéo dài... Nhưng vài phút sau, vô tình con heo Khịt chui vào bụi rậm.
Cái cán trở thành chướng ngại vật, day ngang giữa hai gốc cây, trở thành một cái neo...
Con heo Khịt đứng lại, trì níu. Hai gốc cây tràm rung chuyển... Nó kêu rống vì càng trì níu thì ngọn lao càng xoáy bên hông, giữa hai cái be sườn rướm máu.
- Chết cha mầy!
Cây mác thông của ông Năm Tự lại cắm vào mông con heo Khịt, làm lủng da.
Con Khịt co chân, phóng tới, ghê thật. Ngọn lao cựa quậy từ bên hông con Khịt vì cái ngạnh lút khá sâu.
Ngọn lao sút ra, làm gãy một khúc như be sườn. Nhờ vậy, con Khịt thoát nạn.
Bầy chó xáp lại hiểu rằng con Khịt đã đổ máu quá nhiều... Chó bao vây con Khịt.
Lúc con Khịt bối rối, ông Năm Tự đến trước mặt nó, cắm một mũi mác vào ngực. Khịt gào thét nhóng lên. Tay ông Năm ghì xuống chịu đựng.
Và cứ như vậy suốt mười phút, con Khịt chưa chết, nhưng ông Năm đã run tay, mồ hôi xuống ướt mặt. Mười Hy đứng xớ rớ chưa biết liệu lẽ nào.
Lâu lâu con Khịt rống lên xoay trở. Ông Năm Tự quỳ xuống hai tay bám chặt cây mác. Bầy chó giữ phía sau khiến con Khịt hết đường tháo lui. Hai hàng nước mắt tuôn ra tràn trề rưng rưng chảy trên má ông Năm. Ông dư hiểu: nếu con Khịt chạy vuột thì nó sẽ cắm đầu phóng cái nanh"độc giác" vào bụng ông trong tức khắc.
Mắt ông đổ hào quang, cảnh vật chấp chóe đất trời nghiêng ngửa, cây rừng như trở gốc lên trời dang ngọn xuống đất. Nhưng may thay từ xa có bóng người chạy tới:
- Dữ ác hông? Sao không cho tôi hay trước?
Ông Hai Cháy xuất hiện như một vì cứu tinh, phóng vô yết hầu con Khịt một lưỡi mác, ghim vô thật sâu gần lút hết lưỡi thép.
Con Khịt ngã lăn và ông Năm cũng ngã ngửa, xuôi tay thỏn mỏn.
Hôm sau, ông Năm Tự nằm mê man tại nhà, cơm ăn không trôi, phải nuốt nước cháo cầm hơi. Nhưng khi có ông Hai Cháy tới, ông Năm ngồi dậy như cái máy:
- Sao?
Hai Cháy đáp:
- Một trăm bảy chục ký lô! Cái nanh dài hai tấc.
Ông Năm Tự gật đầu lia lịa:
- Non ba tạ hả? Sướng quá! Cọp mà gặp con Khịt thì cọp đã rút lui. Tôi cầm cự chừng nửa giờ rồi anh tới... tiếp cứu đó. A Di Đà Phật! Hú hồn.
Sơn Nam
Nam Kỳ dễ thương
Dưới nhà, tiếng dép bà mẹ chồng kéo lệt sệt. Bà quen đi dép trong nhà. Tuổi già, lỡ rủi ro trượt té lại sinh chuyện. Tôi chỉ vào phòng tắm:
- Có giỏ áo quần dơ trong đó. Mà trước khi giặt rà sóat lại xem túi áo, túi quần còn sót cái gì không.
Để quên giấy tờ tiền bạc là tật cố hữu của chồng tôi. Con bé lục cà lục cục một hồi trong phòng tắm rồi bước ra với giỏ đồ ngồn ngộn. Tôi đứng dậy:
- Lên đây, cô chỉ cho cách dùng máy giặt. Cố mà nhớ lấy. Không cẩn thận chập điện cháy nhà đấy.
Bất chấp câu hù dọa, mắt nó sáng rỡ lên, khệ nệ ôm giỏ quần áo tất tả chạy theo tôi. Trời ạ, bật cái bếp ga nó bật cũng không xong. Vậy mà máy nước nóng, nước lạnh, máy bơm, máy giặt, máy lạnh, hệ thống cửa khóa… Với trình độ bỏ học từ năm lớp sáu như nó thì máy móc nhà này cũng đến tan hoang. Cái gì cũng hướng dẫn, chỉ vẻ, sai bảo… Mà tôi thì đang lúng túng vụng về với vai trò làm mẹ. Phải nói cả tôi lẫn nó đều rối tung lên. Rồi cau có, gắt gỏng, tức tối đến ứa nước mắt. Không, tôi cần một người làm khác kia. Chững chạc, thông thạo, nhanh nhạy và biết phải làm gì. Để đáp ứng đủ tiêu chuẩn này tôi đã bàn với chồng tìm kiếm hoặc nhờ dịch vụ. Thế mà… Tiếng dép lệt sệt, nặng nề từ tầng dưới lại làm tôi xốn xang. Có cái gì đè ngang ngực tôi. Nghe tin tôi sinh cháu đầu lòng, mẹ chồng tôi tức tốc lùng sục người làm từ quê nhà đưa tuốt vào đây. Dự định của tôi bị gạt bỏ ngay lập tức. Không, dịch vụ là cái gì. Thời buổi này tin ai được. Vợ chồng bây đi làm cả ngày giao con cho người lạ. Biết gốc gác ở đâu, thật giả ra làm sao. Để đó, mẹ vào giúp ít tháng, kèm cặp con bé cho quen việc, thằng cu cứng cáp rồi mẹ ra. “Con so về nhà mẹ”. Tôi không có mẹ thì đã có mẹ chồng. Đơn giản là thế! Nhưng mẹ chồng và mẹ ruột là hai phạm trù mà cái chung thì ít, cái riêng thì nhiều. Tôi phải biết kiềm chế, phải tự điều chỉnh sao cho ổn thỏa đôi đường. Nhưng vấn đề vượt ngòai sức chịu đựng của tôi vẫn là nó, con Lang. Nó tên Nguyễn thị Lang, viết đúng như tờ giấy khai sinh mà bà mẹ chồng tôi giữ khư khư để vào đây “khai báo với địa phương”. Có lẽ ở quê nó “Lang” là giây lang giây muống gì đó. Tôi ác cảm với nó ra mặt. Khuôn mặt choắt lại, cặp mắt mở to nhìn chỗ này, ngó chỗ kia cứ như rình mò, lùng sục. Nó như con chuột nhắt lấm lét, chui rúc, phá phách. Mới hôm đầu tiên, nữa chai nước tẩy trang của tôi bị trút vô tội vạ vào thau giặt chỉ vì tưởng… xà phòng dành cho em bé. Một bữa, nó táy máy bấm nút cửa phòng rồi đóng sập lại. Cả thằng Bin và chùm chìa khóa đều ở trong phòng. Tôi xanh mặt run rẩy. Chồng tôi phải bỏ dở công việc từ công ty tức tốc chạy về mở cửa. Đuổi việc nó? Không xong! Chồng tôi cũng không mấy tin vào dịch vụ. Hơn nữa, mẹ đã cất công lùng sục mang vào. Hai bà cháu đi tàu hỏa mấy ngày đường phờ phạc, nhếch nhác. Việc gì thì cũng phải từ từ. Tôi uất ức. Đụng đến nó là động chạm đến mẹ. Tôi chìu mẹ chồng rồi còn phải chịu đựng cả người làm vì mẹ chồng nữa sao trời. Đây cũng là một lọai ô dù. Nó cũng có ô dù như ai nên tha hồ tác oai, tác quái. Mà cặp mắt nó nhìn tôi kìa. Ranh mãnh cứ như thách thức, cứ như nó biết chắc chỗ đứng vững vàng của nó trong ngôi nhà này. Đến phát điên vì nó!
Rồi cũng đến lúc tôi phải rời xa con để trở lại công việc. Nấn ná sáu tháng rồi. Sáu tháng trời quen hơi hớm mẹ con, quen ôm ấp hình hài bé bỏng ấy vào lòng, cả lúc ăn, cả lúc ngủ. Bốn tháng hay sáu tháng vẫn là quá ít cho một bà mẹ, dù là mẹ thời hiện đại như tôi. Giao con cho mẹ chồng, lòng dạ tôi ngổn ngang trăm mối. Đành rằng con tôi là cháu bà, cháu cưng cháu qúy nhưng cách nuôi con mỗi thời mỗi khác. Tôi trình bày, dặn dò cặn kẻ. Bà làm theo cái được cái không, lúc quên, lúc nhớ. Có cái bà kiên quyết giữ vững lập trường. Một bữa đi làm về, đẩy cửa phòng bước vào tôi sững người vì hình ảnh trước mắt. Con Lang nằm trên giường tôi. Cái thân hình đen thui nhếch nhác ấy ôm lấy thằng con tôi, miệng còn ư ử hát ru nữa, trời ạ. Tôi nhìn nó, cái nhìn nói lên tất cả. Con bé lật đật ngồi dậy, bỏ hai chân xuống đất, cúi đầu:
- Mệ đang tắm, mệ bảo con lên với em vì sợ em khóc.
Tôi nuốt giận vào trong, chờ đến tối ấm ức nói lại với chồng. Anh không hề ngạc nhiên:
- Mẹ đã bắt con Lang tắm rửa hàng ngày rồi.
Mẹ, hể chạm đến mẹ thì lẽ phải không bao giờ thuộc về tôi. Tôi đay nghiến:
- Em không muốn nó chạm đến con mình. Anh không thấy nó đen điu, hôi hám.
Chồng tôi ném chiếc áo vừa cởi ra xuống giường:
- Mướn người làm hay chọn hoa hậu? Muốn trắng, rồi thì có trắng, muốn thơm, rồi thì có thơm.
Trắng mà thơm! Tôi chợt tỉnh cả người. Người ta bảo “khẩu xà tâm phật”. Tôi lấy một ông chồng thuộc lọai “khẩu xà” là chuyện rõ như ban ngày nhưng còn tâm gì thì chỉ có trời biết. “Đàn ông năm bảy lá gan”! Tôi, một phụ nữ đầy tự tin và thông minh nên biết rõ mình chỉ có một lá. Cầm lấy chiếc áo trên giường tôi máng vào mắc áo rồi đi pha sữa. Ngòai đời, tôi hội nhập dễ dàng với dòng chảy của thời đại mới. Công việc, thành công, thăng tiến… Có lẽ vì thế mà muộn chồng, muộn con. Lấy nhau hơn ba năm, không thấy dấu hiệu gì mẹ chồng tôi bắt đầu hốt hỏang. Bà thăm hỏi, dò xét, bóng gió rồi rên rĩ: “Trời ơi, sáng Sàigòn, chiều đã bay ra Hà Nội. Lại còn đi Tây, đi Mỹ. Đàn bà chi mà chạy như ngựa vía.” Tôi cũng hoang mang. Hai vợ chồng bắt đầu đi đến phòng khám này, phòng khám nọ. Kết quả bình thường nhưng tháng tháng điều mong mỏi vẫn không đến. Tôi thu xếp lại công việc, né tránh bớt những hội thảo chỗ này, chỗ nọ, bó tay, sốt ruột ngồi nhìn cơ hội thăng tiến nhởn nhơ trôi qua trước mặt. Rồi tiền triệu bắt đầu tuôn ra.Vài ba tháng lại nghĩ hai tuần nằm một chỗ. Nghĩ có phép, nghĩ thường niên đến nghĩ không ăn lương… Cuối cùng hạnh phúc đẩy cửa ùa vào gia đình tôi chóang ngợp. Thằng bé, thằng cháu đích tôn cả nhà mong mỏi đã cất tiếng khóc chào đời trong vòng tay tôi. Tôi làm mẹ. Một cảm giác lâng lâng bay bỗng tràn về những khi tôi âu yếm ngắm nhìn con. Nhưng một khi cửa đã mở, hạnh phúc vào được thì những hệ lụy cũng kéo vào theo. Tôi làm mẹ đồng thời dần dần thấm thía những phức tạp của cuộc sống… làm dâu. Từ trước đến giờ tung tăng theo chồng, tự do, thỏai mái quen rồi. Bây giờ bắt đầu thấy ra vào tù túng, phải ý tứ nọ kia.
Mới hôm qua đây thôi, đi chợ về, sọan giỏ thức ăn ra con Lang đã la lên thảnh thót:
- Mệ không ăn cá lóc, cô mua chi hòai.
Rõ ràng nó đã tạt vào mặt tôi một gáo nước. Tôi ngó con cá lóc to đùng, tươi rói trong rỗ. Hình như nó nói đúng nhưng con này tinh ranh qủy quái. Một tuần chỉ có hai lần lo chợ búa. Thì giờ đâu để tôi quan tâm mọi sự. Trăm công ngàn việc đổ dồn vào tôi. Thằng bé ói, ho, khóc đêm là chuyện thường xuyên. Năm bữa nửa tháng lại ấm đầu. Tôi thức đêm sâu cả mắt. Việc của công ty cũng điên đầu. Với chừng đó vốn, tiền tỷ đấy nhưng chiến lược đề ra thế nào để tăng doanh số, biện pháp nào để điều khiển “lính lác” dưới tay mình họat động hiệu qủa. Cái “ghế” tôi ngồi bao nhiêu đứa lăm le xô ngã. Doanh số cuối năm luôn ám ảnh tôi. Không đạt yêu cầu người ta không tuyên bố đuổi việc thẳng thừng nhưng bằng cách này, cách khác, không chịu nỗi mình cũng phải tự ý ra đi. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt này thần kinh cứ căng như dây đàn. Mà căng quá coi chừng đứt. Mẹ chồng tôi cầm rỗ cá lên xuê xoa:
- Mẹ ăn không được thứ ni thì ăn thứ khác. Mua cho cả nhà ăn chớ con.
Mẹ chồng tôi lúc nào cũng thủng thẳng, từ tốn nhưng nói vậy mà chưa chắc nghĩ vậy. Bà nghĩ gì chỉ mình bà biết. Không như tôi, mọi chuyện cứ hụych tọet, thẳng thừng ra với nhau. Như vậy có phải dễ sống hơn không. Người ta “giận cá chém thớt”. Còn tôi, đã giận cá thì cứ lôi cá ra mà chém. Tôi quay sang con Lang, sẵn sàng dao kiếm. Nó tránh tia nhìn sấm sét của tôi, né đòn rất nhanh:
- Để con đem rác đi quăng kẻo lát nữa xe rác đi mất
Nó gom hết nhũng cọng rau già, những vỏ tôm, lòng cá dồn một bịch, nhanh nhẩu dội cái sàn nước sạch bóng , lủi nhanh ra cửa.Tôi nhìn theo nó rồi nhìn quanh căn bếp. Thịt đã rửa xong, sạch sẽ đỏ hồng trong rỗ chờ ráo nước. Cá đã màu mè đâu vào đó, chỉ cần đặt lên bếp kho. Rau đã nhặt xong xanh mơn mỡn. Thần kinh tôi giãn ra từ từ nhè nhẹ. Thôi cũng được, miễn là nó biết việc. Tôi không thể phủ nhận một điều là con bé tiếp thu mọi chuyện rất nhanh. Nó tiến bộ hồi nào không biết nhưng máy móc nhà này với nó bây giờ là chuyện nhỏ. Liếng thoắng, nhanh nhẩu, nó biết đón ý mọi người làm chồng tôi hài lòng ra mặt. Tôi thì không chấp nhận được cái ranh ma láu lỉnh của nó. Mà cũng không lâu nữa đâu. Bà về quê rồi, năm bữa nửa tháng sau tôi sẽ tìm cách tống khứ nó thôi. Kiếm người làm khác. Miễn có tiền, lo gì!
*
“Bà về quê thật rồi, Bin ạ”. Tôi lẩm bẩm nói với con như nói với chính mình. Không còn tiếng dép lệt sệt, không còn tiếng ho khan buổi sáng, không còn những câu nói hiểu đầu này suy đầu nọ. Dưng không lại thấy thiếu thốn. Chồng tôi lại công tác nước ngòai, Bin lại ốm. Lần này sốt nặng. Hơi thở nặng nề, mệt nhọc, nó vừa ho vừa khóc trên vai tôi. Tôi bế con tới lui sốt ruột. Sao taxi gọi hòai vẫn chưa tới. Không khéo trể giờ phòng mạch. Tôi lại quay số gọi hãng khác. Trời lại mưa. Thời tiết này xe rất hiếm. Còn con Lang nữa. Bảo ra ngòai đường vẫy đại một chiếc taxi giờ vẫn chưa thấy về. Có tiếng xe ngừng. Hú vía! Tôi nhìn ra cửa sổ. Xe đang có khách. Một cô gái cúi người bước xuống. Tóc buộc đuôi cheval, chiếc áo hai dây đỏ chói kéo hất lên để hở cả một khúc lưng. Tiếng cửa xe đóng sập lại, cô gái ngước lên. Trời ạ, con Lang. Nó mở khóa chạy ùa vào. Còn tôi thì giận điên người bế con tới lui hậm hực. Chỉ chờ nó ló mặt vào phòng, tôi quát:
- Bảo đi đón xe hay đi xem hát mà ăn mặc thế kia. Có biết là sắp trể giờ rồi không?
Con bé xách giỏ đồ hối hả:
- Con phải thay cái áo, cái quần tươm tất mới đón được xe chớ đánh bộ đồ ngủ đứng giữa đường vẫy, xe nào thèm ngừng.
- Hễ nói là cãi. Bỏ thêm mấy cái khăn sạch vào xách rồi đi. Lẹ lên.
Tôi bế con chạy vội ra đường, giao cửa nẻo một tay nó khóa.
Tối đó, nhà tôi không nấu cơm, mà cũng chỉ có tôi với con Lang. Miệng tôi đắng ngắt. Tôi bảo nó ra đầu ngõ mua bánh mì chim cút. Biết là không thể nào nuốt nổi khúc bánh mì khô cứng đó nhưng kệ! Bụng dạ đâu mà ăn với uống. Tôi không muốn bảo nó đi xa. Tôi cần một người quanh quẩn bên mình. Căn nhà trống trãi quá. Đêm đó tôi thức trắng. Bin vã mồ hôi đầm đìa và cơn sốt lui dần. Đến sáng hơi thở nhẹ nhàng hơn, nó ngủ thiếp đi. Tôi bước ra khỏi phòng, đụng ngay con Lang ngồi trong góc cầu thang, quay lưng vào tường ngủ gục. Trên chiếc bàn ăn hai ổ bánh mì chim cút còn quăng lăn lóc. Tôi chớp mắt. Cút chiên bơ là món tủ của nó. Lâu lâu, nhà có khách, thiếu cơm, tôi đưa tiền cho nó. Nó mừng cuống quýt chạy ra đầu hẻm. Tôi cầm ổ bánh mì nguội ngắt lên rồi lại đặt xuống lặng lẽ nhìn Lang.
Không biết từ bao giờ ý nghĩ “cho con Lang về quê theo bà” không còn hiện lên trong tôi nữa. Và cũng trái với quy ước ban đầu con Lang không về quê ăn tết. Nhịp sống sôi động của thành phố này đã hớp hồn nó. Sàigòn mùa Giáng sinh. Sàigòn những ngày cận kề nguyên đán. Anh đèn màu chớp tắt, tiếng nhạc xập xình từ những quán càphê. Người người chở nhau, sánh vai nhau tưng bừng phố xá… Con Lang mê mệt với những con đường những cửa hiệu hàng hóa sell off đổ ra ngồn ngộn, giá cả rẻ đến bất ngờ. Tuổi của nó, tuổi ăn, tuổi lớn tôi không nở hẹp hòi. Tối tối nó hòan tất nghĩa vụ tươm tất, chóng vánh tôi cho phép nó ra đường nhưng phải trở về trước chín giờ rưỡi. Nó phơi phới như một bông hoa đầm đìa sương sớm. Một tối, nó xô cửa ùa vào phòng tôi, khuôn mặt còn nguyên nét phấn khích:
- Cô ơi, Đan Trường mới bắt tay con.
Tôi bật cười. Nó ngồi lên giường tôi, hai chân đong đưa, mắt sáng long lanh miệng huyên thuyên ríu rít:
- Cô biết không, hát xong Đan Trường bước xuống sân khấu. Người ta túa lên, túa lên. Con cũng chen vào. Đan Trường ngó quanh rồi quay về phía con chìa tay ra.
À, đây là tiết mục giao lưu văn nghệ. Có chương trình ca nhạc tổ chức ở gần nhà, nó năn nỉ. Tôi cho phép nó đi chơi, còn cho thêm tiền mua vé. Tôi nhìn nó, con Lang của tôi. Nó bây giờ quần jean bó sát, áo hai dây bé tẹo có đính hạt cườm lấp lánh, tóc cắt đúng mốt Hàn quốc. Bây giờ nó là Nguyễn Thy Lan như một cú điện thọai anh chàng nào đó gọi đến mà tôi tình cờ bắt máy. Đến lượt chồng tôi cảnh báo: “Em phải kiểm sóat con Lang kỹ hơn. Coi chừng nó giao thiệp bậy bạ. Nhà cửa giao cho nó, con cái giao cho nó.” Tôi cũng ý thức được điều đó. Phải kiểm sóat. Nhưng nhiều lúc tôi cảm thấy mình bất lực trước một cái gì như sức sống cứ bùng lên. Bùng lên đúng quy luật tự nhiên của nó. Thôi thì những vấn đề vụn vặt tôi xuê xoa không để ý. Thức ăn trong tủ lạnh nó tha hồ tự do. Chocolat và bánh kẹo. Không, những thứ đó vừa lên cân vừa nổi mụn. Nó “chuyên trị “ trái cây. Buổi sáng, tôi đi làm, nó xay sinh tố uống. Tệ lắm cũng vài quả cà chua pha đường. Cho đẹp nước da!.Tôi biết nhưng lờ đi. Tôi đang cần nó. Hết cái thời động một tí là sẵn sàng “cho mày về quê”. Tôi lệ thuộc vào nó thật rồi. Nói như chồng tôi, nhà cửa, con cái nó thay tôi quán xuyến. Tôi rảnh tay, rảnh chân lao vào công việc, cũng cố lại vị trí của mình trong công ty, ngửng cao đầu trước những đôi mắt thèm thuồng, ganh tị. Ở đời, phải biết bỏ cái nhỏ để thu về cái lớn chứ. Vả lại, tôi vẫn tự hào rằng mình vốn công bằng trong cách nghĩ. Tôi có cái thành đạt của tôi thì nó cũng có cái “thành đạt” của nó. Nó giỏi thật mà. Đi bên tôi, nó không hề kém cạnh. Mà tôi “tha” nó đi khắp. Nó bế thằng cu Bin. Tôi tỉnh bơ giới thiệu với mọi người “con nhỏ cháu”. Sạch sẽ, điệu đàng, mốt, ai dám bảo nó là người làm. Một bữa, ngồi trên chót vót một cao ốc Sàigòn ăn kem, nhìn xuống thành phố ánh đèn màu rực rỡ, dòng xe cộ nhỏ li ti phía dưới, mắt nó thẩn thờ rồi chớp chớp quay sang tôi tâm sự: “Hồi đó mệ bảo con vào giúp cô. Cô trả tám trăm ngàn một tháng. Tám trăm chứ năm sáu trăm con cũng đồng ý. Con đi cho biết Sàigòn.” Tôi cũng biết điều đó. Cặp mắt của nó buổi đầu tiên, cặp mắt mở to nhìn chỗ này, ngó chỗ kia như rình mò như lùng sục. Cặp mắt đó đang háo hức trước cuộc đời. Nó hăm hở thọc tay vào cuộc sống cũng như trước đây hăm hở vọc tay vào mọi thứ máy móc của nhà tôi. Tôi biết nó không ngừng lại vị trí ôsin trong nhà này nhưng nó sẽ tiến về phía nào thì tôi còn mù mờ chưa rõ.
Thêm một cái tết nữa rồi. Ngòai đó nhắn vào mẹ nó bệnh, năm nay dứt khóat nó phải về. Con Lang cười thản nhiên bảo bệnh chỉ là một chiêu bài mẹ nó đem ra để gọi nó về. Nhưng về thì về. Ăn tết xong con sẽ vào với cô. Bà nội cu Bin, vẫn cái tính lo xa và tính tóan gọi điện bảo tôi: “Con lo cho nó ít đòn bánh tét, nó ăn đường đỡ tốn kém.” Chồng tôi cười khà khà:
- Bà nội lạc hậu rồi. Con Lang bây giờ mà đem bánh tét theo ăn đường.
Rồi anh đứng dậy mặc áo đi đăng ký xe cho nó. Đi xe Sinh càphê cẩn thận. Anh quay sang nó hăm hở:
- Chuyến này cho mày đi xe với tụi Tây. Biết đâu chẳng hớp hồn được một thằng rồi bay đi ngọai quốc.
Con Lang đang rửa chén, vẫy bàn tay tóe nước cười ngất:
- Tối nay cô dạy con mấy câu tiếng anh làm vốn. Chữ nghĩa con chỉ có hê-lô với ô-kê.
Tôi cũng cười ngồi xuống chân cầu thang, đặt tay lên thềm đá lạnh. Chỗ này đây, tôi bắt gặp Lang ngồi ngủ gật sau một đêm thức trắng vì cu Bin sốt nặng. Đây cũng là chỗ ngồi quen thuộc của tôi. Mỗi tối, cơm nước, dọn dẹp xong xuôi, tôi ngồi xuống đây, tựa người vào thành vịn trong khi con Lang lúi húi mở tủ lạnh kiểm điểm lương thực còn dự trử. Nó hô, tôi “phán”. Chỉ trong vòng mươi phút là cả hai đã quyết xong một thực đơn hòan chỉnh, ngon lành cho ngày mai. Hôm sau, nó cứ thế mà thực hiện. Cuộc sống trôi đi nhịp nhàng, suông sẽ, dễ chịu. Tôi sắp mất một cái gì chăng? Tôi ngửng đầu lên bắt gặp con Lang cũng đang ngồi tựa lưng vào chiếc tủ lạnh đóng kín. Nó nhìn tôi:
- Ra tết chừng mồng bốn, mồng năm là con vào. Kẹt quá cô gọi người làm giờ đến phụ lau dọn nhà cửa.
Thế là Nguyễn Thy Lan lên đường. Cực kỳ mốt, cực kỳ hiện đại. Mái tóc duỗi thẳng thoang thỏang mùi nước hoa. Nó mất một buổi chiều trong tiệm làm đầu cọng thêm bao nhiêu tiền bạc thì tôi không biết. Vẫn áo hai dây, quần bó sát bắp chân tròn lẳn, nón kết trên đầu. Vai mang một cái ba lô đỏ chói nó hiên ngang hòa nhập với đám du khách qúy tộc, chẳng kém cạnh một ai. Một vài cặp mắt hướng về phía nó, ngưỡng mộ. Với tuổi trẻ của nó, nhan sắc vừa đúng độ, phải nói nó đẹp rỡ ràng. Đưa nó ra xe, không vội trở về, tôi nấn ná ngắm “tác phẩm” của mình. Tôi có quyền hãnh diện chứ. Dù sao đó cũng là “tác phẩm” của tôi.
Giờ thì tôi đã thay hai ba người làm rồi nhưng vẫn không ai bằng con Lang. Nó không vào nữa. Gọi điện vào nó phân trần với tôi là mẹ nó bệnh. Bà nội cu Bin nhận xét: “Ở ngòai mình con gái lớn không ai thả đi rông rứa cả. Nó về nhà cả làng chạy hết. Không biết nó vô Sàigòn mần cái chi.” Ít lâu sau tôi lại nghe tin nó sang Lào, theo dì nó làm nghề uốn tóc. Chồng tôi cười bảo: “Mẹ nó làm sao giữ được nó. Với nó, cuộc đời này là một cục nam châm.” Tôi chợt rùng mình. Tôi vẫn cảm nhận rằng nó sinh ra không phải để làm ôsin. Tôi biết, nó đầy ham muốn, đầy khát khao, tràn trề sức sống. Nhưng còn sự chín chắn, sự khôn ngoan, cái văn hóa căn bản để nhận chân những giá trị cuộc sống… Nguy hiểm quá,Lang ơi!
Hôm nay, cầm tờ báo Tuổi trẻ chủ nhật đọc một lọat bài phóng sự về thế giới mại dâm, về những hang ổ tột cùng của trụy lạc và tội ác ở Campucha tôi rùng mình ngước mắt nhìn chồng. Như đọc được điều lo nghĩ của tôi anh nhỏ giọng; “Đất Lào hiền hơn em à.” Tôi thầm cầu mong như thế. Có tiếng chuông điện thọai. Tôi với tay cầm lấy ống nghe:
- Allo!
- Cô ơi, con đây, con đây cô.
Tôi kêu lên:
- Thy Lan phải không con?
Tiếng cười ròn rã phía đầu dây kia:
- Dạ, Lang đây. Dây lang dây muống của cô đây.
Tôi dồn dập:
- Con đang ở đâu? Con làm gì? Ra sao rồi?
Nó không vội trả lời tôi. Im lặng một chút rồi kể tôi nghe công việc làm ăn của nó. Nó sang Lào làm nghề uốn tóc thật. Ban đầu, phụ việc, dần dần ra riêng. Nó thuê một gian quán nhỏ phục vụ xóm lao động, mấy bà nội trợ có nhu cầu làm đẹp. Cư trú bất hợp pháp, giai đọan căng quá công an đuổi gắt. Dẹp tiệm, xách bộ đồ nghề đi làm dạo , lang thang. Tình hình lắng xuống lại mày mò trở về tìm cách gầy dựng lại. Nó khoe tôi bây giờ ổn rồi. Mỗi tháng, sau khi trừ hết mọi phí tổn ăn tiêu cũng còn được hơn trăm đô. Nó lại cười:
- Con bây giờ biết tính cả tiền đô.
Tôi ứa nước mắt:
- Cô mừng, mừng lắm.
Tất cả những gì tôi muốn khuyên bảo, dặn dò bỗng bay đâu mất. Trước mắt tôi hiện ra cái vóc dáng nhỏ nhoi của nó trên con đường gió bụi. Con đường biên giới nắng như quạt lửa vào mặt người. Tám mươi cây số từ Đông Hà đến cửa khẩu Lao Bảo. Con đường Lang khoe vẫn đi lại dễ dàng. Dễ bằng mấy lần vào cái xứ “Sài gòn của cô”.Giọng nó bỗng nhiên trầm xuống:
- Cu Bin chắc lớn bộn rồi hả cô? Không biết nó còn nhớ chị Lang đen của nó không. Thế nào rồi con cũng về thăm cô chú. Con chỉ muốn gom chút vốn rồi về Việt Nam làm ăn. Con sẽ kiếm chỗ mở tiệm. Ở với cô thì sung sướng trắng da dài tóc nhưng con thích… thích… cô đừng cười, con thích làm chủ. Biết đâu mai mốt con có tiệm làm tóc ở Sàigòn. Cô đến chơi. Cô sẽ ngã người trên ghế cho lính lác con làm tóc, giũa móng tay, trong khi con, con kéo ghế ngồi tiếp chuyện cô. Con sẽ… sẽ… Á, mà cô ơi, mệ nội dạy đàn bà không được ham muốn, không được thèm khát. Thèm khát rồi tối mắt, tối mũi, rồi… hư thân!
Tôi nghe phía đầu dây kia một chuỗi cười giòn tan như pháo tết ./.
Ngô Thị Ý Nhi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét