Nhân đọc trên Internet về giải Nobel khoa học làm tôi lưu ý về câu nói đặc biệt của BS Loncólogo Bresilien Drauzio như sau:
"Trong thế giới hiện tại, chúng ta đầu tư trong cuộc tìm kiếm thuốc kích thích cho đàn ông và chất silicone cho ngực đàn bà năm lần nhiều hơn là tìm thuốc để trị bịnh Alzheimer. Vài năm nữa, chúng ta sẽ có những đàn bà với vú bự, những cụ già với dương vật cứng ngắt nhưng không người nào nhớ những cái đó để làm gì. ".
Tôi cố gắng tìm hiểu thêm về căn bệnh nan y này để chúng ta có thêm kinh nghiệm mà đề phòng. Sa sút trí tuệ (dementia)là bệnh thường gặp ở người cao tuổi. Biểu hiệu của bệnh là dấu hiệu hay quên, suy nghĩ không được rành mạch, tức là bệnh giảm trí nhớ và giảm nhận thức. Nếu không phát hiện sớm hoặc cố tình giấu bệnh lâu ngày sẽ trở thành lú lẫn.
Người sa sút trí tuệ thường hay bị nhầm lẫn hay quên đưa tới hậu quả xấu trong sinh hoạt hằng ngày như vệ sinh cá nhân, sử dụng thiết bị bếp nút thiếu an toàn, mất ngủ, v.v….Hơn nữa họ dễ sinh ra trầm cảm, lo âu buồn phiền vì cảm giác cô đơn. Cụ thể của triệu chứng quên là việc đếm tiền hằng ngày, khó khăn trong việc quay số điện thoại, nhầm lẫn trong việc mua sắm, khó khăn tìm đường trong thành phố…Nhân cách cũng thay đổi như ngơ ngác thờ ơ với người khác, luôn than phiền quên, không nhớ.
Hiện nay bên Hoa Kỳ có 4.5 triệu người lớn tuổi bị bệnh Alzheimer, tuổi mắc bệnh thường từ 60 trở lên. Con số này dự đoán sẽ gấp nhiều lần trong vòng 20 năm tới, khi tuổi thọ trung bình ngày càng tăng lên. Mặc dù vẫn chưa có một phương pháp thực sự hữu hiệu nào để ngăn ngừa bệnh Alzheimer, nhưng các nhà nghiên cứu đã đạt được những bước tiến quan trọng trong 5 năm gần đây. Điều trị thích hợp có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Ngày càng có nhiều loại thuốc được nghiên cứu, và các nhà khoa học còn khám phá ra hàng loạt gen có liên quan đến Alzheimer, từ đó đã đưa ra nhiều hướng điều trị nhằm ngăn chặn bệnh lý phức tạp này.
Vào thập niên 1980, báo chí Mỹ rầm rộ đưa tin rằng một nhóm bác sĩ bên Mỹ đã thành công điều trị bệnh Alzheimer (bệnh mất trí nhớ) bằng cách bơm bethanechol chloride vào não. Vì bệnh Alzheimer là bệnh nan y (ông TT Ronald Reagan từng mắc bệnh này trong thời gian làm tổng thống Mỹ), không có thuật điều trị dứt, cho nên báo chí Mỹ lúc đó ca ngợi đây là “một sự đột phá trong việc điều trị bệnh Alzheimer”, và “các bác sĩ hi vọng rằng bệnh Alzheimer sẽ được chinh phục nay mai”! Nhưng sự thật là họ chỉ điều trị 4 bệnh nhân, và kết quả được đánh giá một cách chủ quan theo cảm nhận của bác sĩ. Đến khi thuật điều trị đó được áp dụng cho vài bệnh nhân khác, kết quả hoàn toàn vô dụng và bản tin trở thành câu chuyện hài hước trong giới y khoa. Chúng ta thật thận trọng khi biết được những khám phá điều trị mới về căn bệnh nan y này.
Nguyên nhân Alzeimer?
Theo nhiều BS tuy nguyên nhân gây ra bệnh Alzheimer vẫn chưa biết chính xác, yếu tố lớn nhất vẫn là tuổi tác: sau 65 tuổi, cứ thêm 5 tuổi thì nguy cơ mắc bệnh lại tăng gấp đôi. Sau 85 tuổi thì nguy cơ bị bệnh là 50%. Bệnh Alzheimer là một bệnh thoái hóa não nguyên phát, căn nguyên chưa rõ ràng, biểu hiện lâm sàng bằng trạng thái mất trí tiến triển, không phục hồi, thường khởi phát ở lứa tuổi trên 65. Các khoa-hoc-gia cũng đã tìm thấy những thay đối khác trong não của các người bị bệnh Alzheimer. Các tế-bào thần kinh ở những vùng não cần-thiết cho trí-nhớ và những năng-lực tâm-thần khác bị chết nhiều và sự liên-kết giữa các tế-bào thần-kinh bị gián-đoạn.
Ngoài ra số lượng các hoá-chất chuyển tín-hiệu (messages) qua lại giữa các tế-bào thần-kinh cũng giảm.. Bệnh Alzheimer làm hao- tổn khả-năng suy- nghĩ (thinking) và trí nhớ (memory) bằng cách phá các tín-hiệu này.
Yếu tố sinh học của não - Nhờ tiến bộ trong lĩnh vực hình ảnh học, người ta đã phát hiện người bị Alzheimer có sự mất tế bào thần kinh và giảm thể tích những vùng não chi phối trí nhớ, vùng đảm nhận tâm thần kinh. Dưới kính hiển vi điện tử, khi xem xét mô não về tế bào học thấy có tổn thương về mặt sinh học, đó là sự thoái hóa của các sợi dây thần kinh, hoặc bị tổn thương chỉ còn là những ống nhỏ ngăn cản vận chuyển chất dinh dưỡng nuôi tế bào thần kinh. Vấn đề này liên quan đến một protein tên là Tau. Kế đến là sự xuất hiện của một protein gọi là beta Amyloid, chúng không hòa tan nên tích tụ thành những mảng keo. Ở bệnh nhân Alzheimer, những chất này nằm xung quanh các tế bào thần kinh chết, một loại protein có tên Amyloid precursor (APP) cũng tồn tại ở đây giúp cho hoạt động hủy hoại tế bào thần kinh của beta Amyloid. Sự có mặt quá nhiều của beta Amyloid sẽ làm giảm chất trung gian dẫn truyền thần kinh acetylcholine cần thiết cho trí nhớ.
Beta Amyloid cũng ngăn chặn sự vận chuyển ion kali, natri, calcium qua màng tế bào (giúp cho quá trình truyền tín hiệu thần kinh). Ngoài ra còn có vai trò của một số chất protein khác như ERAB (endoplasmic-reticulum associated binding protein), mảng AMY (giống beta Amyloid), Par-4 (prostate apoptosis response - 4).
Sự oxy hóa và đáp ứng viêm - Nhiều nghiên cứu đã cố gắng đi sâu tìm hiểu tại sao beta Amyloid lại gây tổn thương não trong bệnh Alzheimer và đã phát hiện ra sự xuất hiện của các gốc oxy tự do. Sự xuất hiện nhiều chất này sẽ làm tổn thương tế bào thần kinh. Thật ra sự xuất hiện các chất oxy hóa là sản phẩm của hầu hết những phản ứng hóa học trong cơ thể con người nhưng với một lượng dư thừa sẽ gây hại (chất oxy hóa cũng đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh của bệnh mạch vành và ung thư). Ngoài ra chất oxy hóa cũng liên quan với đáp ứng miễn dịch, đó là phản ứng viêm (men cyclooxygenase và prostaglandin làm tổn thương tế bào thần kinh).
Yếu tố gene - Các gene đóng vai trò gây khởi phát muộn Alzheimer là Apolipoprotein (ApoE). Trong cơ-thể mọi ngưòi đều có ApoE để giúp chuyển tải cholesterol trong máu, nhưng chỉ có khoảng 15 phần trăm dân- chúng là có dạng ApoE tăng rủi-ro bị bệnh Alzheimer. Cũng có những gene khác tăng rủi- ro bị Alzheimer hoặc giúp chống lại bệnh này. Chẳng hạn như biến-thể bất bình thuờng cuả gien SORL1 có liên-quan đến bệnh Alzheimer bộc phát trễ (late onset Alzeimer). Còn những đột biến gene PS1, PS2 hoặc gene kiểm soát APP sẽ làm cho bệnh Alzheimer khởi phát sớm hơn. Giảm hormone sinh dục nữ: Sự giảm estrogen sau mãn kinh có liên quan rõ rệt đến giảm trí nhớ và sa sút tâm thần.
Yếu tố môi trường - Nhiễm trùng, nhiễm kim loại (người ta phát hiện kẽm, đồng tích tụ trong mô não người bị Alzheimer), môi trường điện từ trường, nhiễm độc...
Theo các nhà nghiên cứu Đức thì những người có lượng đường trong máu cao có nhiều khả năng gặp vấn đề trí nhớ. TS Agnes Floel thuộc ĐH Y khoa Charite Berlin, tác giả một nghiên cứu trên tạp chí Neurology cho biết những người có lượng đường trong máu thấp có khả năng đạt điểm số cao hơn trong các bài kiểm tra trí nhớ. Nghiên cứu được thực hiện với 141 người có độ tuổi trung bình 63, không bị bệnh tiểu đường hay tiền tiểu đường. Họ được yêu cầu nhớ lại 15 từ trong vòng 30 phút. Họ được quét não để đo kích thước vùng hippocampus của bộ não, là bộ phận có vai trò quan trọng trong trí nhớ. Nghiên cứu cho thấy những người nhớ được ít từ hơn có lượng đường trong máu cao hơn. Và kích thước vùng hippocampus trong não cũng nhỏ hơn. Theo TS Floel “những kết quả nấy cho thấy ngay cả những người có lượng đường trong máu ở mức bình thường, việc làm giảm lượng đường cũng là một phương pháp đầy hứa hẹn để ngăn ngừa việc suy giảm nhận thức và trí nhớ khi lớn tuổi. Chúng ta nên ăn giảm calory tiêu thụ và tăng cường hoạt động thể xác”.
Một số yếu tố khác đã được xác định có liên quan Alzheimer là homocystein, sự thiếu hụt vitamin nhóm B, trầm cảm, chấn thương đầu, nhóm người có điều kiện kinh tế kém và học vấn thấp.
Dấu hiệu phát triển của bệnh
Bệnh Alzheimer phát-triển chậm, triệu-chứng duy-nhất lúc đầu chỉ là chứng hay quên (forgetfulness) mà chúng ta có thể lẫn với thay đổi của trí nhớ liên quan đến tuổi già. Hầu hết những người có chứng hay quên nhẹ không có bệnh Alzheimer. Tỷ lệ bệnh Alzheimer ở người trên 65 tuổi là khoảng 5% và ở nhóm người trên 85 tuổi là 20%. Vào giai-đoan đầu của căn bệnh này, các bệnh-nhân có khó khăn nhớ lại các sự cố mới xẩy ra, các hoạt-động hay tên của những người thân hoặc đồ vật. Họ có thể không còn giải-quyết đươc các bài toán đố đơn- giản. Các khó khăn này có thể làm bực bội khó chịu nhưng không đủ nghiệm- trọng đế gây lo lắng.
Các biến đổi đặc trưng trong não là sự giảm sút đáng kể các nơron, teo lan tỏa vỏ não, giãn rộng não thất. Sau đây là triệu chứng thông thường ở người già mắc bệnh Alhzeimer:
- Quên tên hay lãng quên tên (tên bố, mẹ, vợ, con...) lặp đi, lặp lại nhiều lần trong ngày. Cuối cùng là quên tên của mình.
- Hay ghi chép lặt vặt (tạo tiền đề để nhớ).
- Tìm mọi cách để phủ nhận những sa sút trí nhớ của mình.
- Gọi điện cho người thân nhiều lần (gọi xong lại quên, gọi lại).
- Lẫn lộn các đồ vật, nhầm ngày, tháng, năm
- Đi phố quên đường về nhà
- Chứng mất ngủ thường xuyên
- Xử dụng khó khăn máy móc trong nhà, có rủi ro gây hỏa hoạn
Cách ngăn ngừa và chữa trị
Trong nhiều cố gắng y học khẳng định “quên giai đoạn sớm” có thể chữa được và ít ra cũng làm chậm lại quá trình bệnh hoặc tạo cho bệnh nhân đời sống tốt hơn. Vấn đề đặt ra là khi bạn có biểu hiệu quên thì nên đi khám BS để xác định mức độ quên, tìm các yếu tố nguy cơ và kịp điều trị sớm. Dù nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã cố tìm những biện pháp nhằm giảm nguy cơ của bệnh, nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả khả thi vì nguyên nhân chính yếu gây bệnh chưa được biết đến. Do đó việc phòng ngừa cũng chỉ là hạn chế các yếu tố nguy cơ.
· Khám BS để chẩn bệnh để biết ở tình trạng nào và dùng thuốc men điều trị. Hiện nay có nhiều thuốc điều trị cho chứng quên do sa sút trí tuệ, quên sau tai biến mạch máu não, quên thông thường ở người lớn tuổi, do trầm cảm, stress hay Alzheimer…Một số thuốc có tác dụng duy trì trí nhớ và khả năng nhận thức dùng trong điều trị bệnh Alzheimer là các thuốc dinh dưỡng thần kinh, tăng cường chuyển hóa, tuần hoàn não. Đặc biệt các thuốc như tacrine, donepezil và rivastigmin. Một thứ thuốc khác, nemantine(Namenda) cũng đã được chấp-thuận để trị bệnh Alzheimer vừa hay nặng., mặc dầu thuốc chỉ có hiệu-ứng giới-hạn.Ngoài ra,cũng còn một số thuốc giúp kiểm- soát những triệu-chứng về tật-tính (behavioral symptoms) của bệnh Alzheimer như mất ngủ, kích-đông, đi lang-thang, bồn chồn và trầm-cảm. Một khi trị đươc các triệu-chứng này bệnh-nhân sẽ cảm thấy thoải-mái hơn và người chăm nom cũng sẽ đỡ vất vả hơn.
· Chế độ dinh dưởng như ăn nhiều chất Omega-3 trong cá hồi (salmon). Bổ sung Vitamin C và E. Một nghiên cứu ở trường ĐH John Hopkins cho thấy Vitamin C và E dùng chung có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer. Nếu sử dụng dầu cá thường xuyên trí nhớ ta sẽ được cải thiện đáng kể và tăng khả năng phán đoán, tập trung ở người lớn tuổi. Dầu cá hơn nữa còn giúp chống lại chứng trầm cảm, rối loạn tâm thần lưỡng cực và xoa dịu các triệu chứng liên quan đến tâm lý. Một nghiên cứu gần đây cho thấy những người lớn tuổi ăn cá ít nhất 1 lần mỗi tuần giảm khả năng phát triển bệnh Alzheimer. Nghiên cứu trên được tiến hành từ việc thu thập thông tin từ nhóm 260 người khỏe mạnh tuổi trung bình là 76. Những hình ảnh quét não bộ được tiến hành sau 10 năm cho thấy những người không ăn cá đều đặn đã có sự teo đi ở một số vùng chính của não bộ liên quan đến trí nhớ. Trong 5 năm liên tiếp có tới 31% những người không ăn cá thường xuyên đã có biểu hiện của bệnh Alzheimer trong khi đó những người ăn cá ít nhất 1 lần mỗi tuần tỷ lệ này là 3 đến 8%. Theo các nhà khoa học cá cần được chế biến sao cho giữ được lượng acid béo Omega-3 ở mức tối đa, chúng sẽ theo máu lên não. Cá chiên giữ lượng Omega-3 thấp nhất. Việc thiếu hụt acid béo Omega-3 là nguyên nhân chính gây nên chứng mất và suy giảm trí nhớ ở người già.
· Nghệ, gừng, ớt chẳng những thêm hương vị cho món ăn mà còn là những chất kháng viêm thiên nhiên (còn gọi là kháng oxy hóa hay antioxidant) .
· Các nghiên-cứu trước đây cho thấy là chất ly-trích từ lá cây ginkgo biloba có thể giúp trị các triệu-chứng của bệnh Alzheimer. Hiện chưa có bằng- chứng là chất này có thể chữa khỏi hay phòng ngừa bệnh Alzheimer, nhưng các nhà khoa-học đang làm thử-nghiệm lâm-sàng xem ginkgo biloba có thể làm chậm sự suy-yếu nhận-thức và ngăn chặn sự sa-sút trí-tuệ (dementia) của người già hay không.
· Hạn chế dùng các loại dầu thực vật có chứa chất béo poly-unsaturated (như dầu hướng dương, dầu bắp, dầu safflower) mà thay bằng dầu olive ép nguội (không nấu).
· Ngủ nhiều – loại bỏ các độc tố trong não giữ một vai trò quan trọng, bởi sự tích tụ của chúng cũng như sự tích tụ của các protein độc hại có thể gây ra bệnh Alzheimer và hàm lượng này sẽ giảm tối đa khi ta ngủ. Gần đây Dr Maiken Nedergaard thuộc khoa y học ĐH Rochester , NY cho biết trong tạp chí Science “nghiên cứu cho thấy não có các trạng thái hoạt động khác nhau trong suốt quá trình thức và ngủ. Bản chất phục hồi của giấc ngủ xuất phát từ sự loại bỏ các chất cặn bã được sinh ra bởi hoạt động của tế bào thần kinh và tích tụ trong suốt quá trình chúng ta thức. Để tiến hành công việc dọn vệ sinh này, não sử dụng một hệ thống duy nhất có tên là “bạch huyết” hoạt động rất tích cực trong giấc ngủ của chúng ta và giúp dọn sạch các độc tố gây ra bệnh Alzheimer và nhiều bệnh thần kinh khác”. Thêm vào đó các nhà nghiên cứu còn phát hiện ra rằng các tế bào giảm kích thước của chúng đến 60% khi chúng ta ngủ, điều này giúp cho các chất cặn bã được loại bỏ hiệu quả hơn. Các nhà nghiên cứu lần đầu tiên đã có thể quan sát hệ thống làm sạch não nhờ công nghệ hình ảnh mới được sử dụng ở chuột là loài có bộ não tương tự như con người.
· Chích vaccin – ngày 9 tháng 12 năm 2012 các nhà khoa học tại viện Nghiên cứu Thần kinh Sydney (BMRI) ở Úc cho biết họ đã nghiên cứu thành công vaccin làm chậm quá trình phát triển bệnh Alzheimer. Họ tiến hành thí nghiệm trên loài chuột mang bệnh Alzheimer và kết quả cho thấy vaccin có tác dụng phòng ngừa và làm giảm khả năng phát triển các mảng thái hóa thần kinh trong não khi tác động vào một loại protein có tên Tau. Nhà nghiên cứu Lars Ittner cho biết đây là loại vaccin đầu tiên nhằm vào protein Tau có hiệu quả ngay hình thành bệnh. Các nhà nghiên cứu Úc đang cộng tác với nghành dược của Hoa Kỳ để bào chế loại vaccin này.
· Kết quả công trình nghiên cứu mới công bố trên tạp chí Neurology cho biết hút thuốc, bệnh áp huyết cao và bệnh béo phì ở tuổi trung niên có thể dẫn đến tình trạng giảm thiểu não bộ và phát triển nhanh bệnh mất trí nhớ. “Những nghiên cứu của chúng tôi cho thấy việc sớm nhận dạng những nhân tố nguy cơ có thể giúp xác định đối tượng tuổi trung niên bị đe dọa mắc bệnh mất trí nhớ cao nhất, nhằm thuyết họ thay đổi lối sống trước khi quá muộn”. theo GS Charles DeCarll của ĐH California in Sacramento.
· Thay thế gene – gần đây giới khoa học bên Anh cho biết bệnh Alzheimer ở nam và nữ giới có thể được ngăn chận bằng cách loại bỏ các gene xấu hỏng và thay thế bằng gene khỏe mạnh. Họ thêm rằng các loại thuốc trên thị trường có thể trì hoãn tiến trình bệnh Alzheimer, nhưng lại thất bại trong việc ngăn chận những nguyên nhân sâu xa trong não có nghĩa là tác dụng các loại thuốc này đã qua quá nhanh chóng và ngay sau đó là quá trình tàn phá của căn bệnh tới trí nhớ. GS Julie Williams đã đưa ra dự đoán sau khi dẫn đầu một nghiên cứu lớn nhất chưa từng có về tính di chuyền của bệnh này. Các tổ chức về Alzheimer cho biết khám phá thú vị về các gene liên kết với căn bệnh này sẽ mở rộng những con đường mới để thăm dò trong nghiên cứu nhằm điều trị hiệu quả căn bệnh này. Nghiên cứu bước ngoặt này do sự tham gia của hơn 180 nhà nghiên cứu từ 15 quốc gia trên thế giới. Những gene này được phát hiện bằng cách so sánh DNA của hơn 25 ngàn người mắc bệnh Alzheimer với 48 ngàn người không mắc bệnh. GS Williams người chủ tịch cố vấn khoa học của Welsh Assembly và cũng là nhà nghiên cứu thực hiện cho biết “Điều làm chúng tôi bất ngờ là phần lớn các phát hiện là loại mẫu khỏe mạnh của cơ thể đang gây ra chứng mất trí nhớ. Mỗi gene riêng biệt sẽ mang đến một rủi ro thấp. Nhưng khi bạn đặt tất cả các thông tin cùng nhau, chúng sẽ tiết lộ cho ta biết một câu chuyện lạ lùng và thú vị và điều đó đưa chúng ta vào một phương hướng mới”. Bà cho biết thêm, kết quả nghiên cứu cần được theo dõi với sự cấp bách thực sự để xác định xem các gene gây ra bệnh Alzheimer bằng cách nào. Biết được điều này sẽ đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu cho biện pháp điều trị bằng thuốc mới. Tuy nhiên có một khả năng khác đó là sửa lại DNA hỏng hoặc biến thể gene gây ra Alzheimer bằng cách cho bệnh nhân một gói gene khỏe. Bà bổ xung rằng trong một tương lai xa mọi người trong độ tuổi 40 hay 50 cần phải được kiểm tra các gene gây mất trí nhớ và sử dụng liệu pháp điều trị gene hay những biện pháp điều trị khác để ngăn ngừa bệnh Alzheimer phát triển vĩnh viễn.
Ngày càng nhiều bằng chứng về y khoa cho thấy việc kích thích não (suy nghĩ) suốt đời là chìa khóa cho việc nuôi dưỡng và duy trì các tế bào não khỏe mạnh, chặn đứng việc giảm trí nhớ và có thể ngăn chặn được bệnh Alzheimer. Hãy thử làm công việc mình thích thú (có lương hay tình nguyện), theo đuổi các sở thích (như chơi cây cảnh, sưu tầm tem, …), tham gia tích cực vào các hoạt động cộng đồng xã hội, học ngoại ngữ, ca hát, học nhảy đầm hay cách dùng các phần mềm vi tính (iPad, computer software).
Trong khi chờ đợi sự thành tựu của những khám phá khoa học và thuốc mới trong tương lai, giới baby boomers chúng ta đã và đang sắp vào tuổi cao niên nên cố gắng tạo cho mình lối sống vui vẻ hòa thuận với mọi người xung quanh - bạn bè con cháu, chat trên mạng thường xuyên, bỏ hút thuốc, xiêng năng tập thể dục, đi bộ đều đặn, hoạt động thể thao, ăn uống đầy đủ chất bổ Omega-3, vitamine C & E, ăn ít đường, nên ăn thịt của thú vật đi hai chân và rau cỏ nhiều hơn, giảm thịt đỏ, luôn mĩm cười rộng lượng với mọi người xem ra là giải pháp tốt nhất để giữ trí nhớ tốt và cũng đề phòng căn bệnh ngoặt nghèo Alzheimer này…
Nguyễn Hồng Phúc – sưu tầm & nghiên cứu
Tham khảo:
1. http://www.tintuccaonien.com/docs/docs_6/6_2_4.htm
2. Inactivity linked to Alzheimer by Sheryl Ubelacker form Canadian Press.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét