Cái hồ nhỏ ấy nằm buồn hiu dù nằm giữa một "khung trời đại học" lãng mạn, khi lúc ấy xung quanh nó là một số trường đại học như Luật, Y, Kiến trúc... và "con đường Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch) cây dài bóng mát".
Cho đến giữa thập niên 1960, khu vực này bỗng như bừng tỉnh với thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Kỳ. Thiết kế được chọn trong cuộc thi quy hoạch mới cho một công trường rộng gần 1ha nhưng nằm buồn hiu giữa Sài Gòn này.
Nhưng thật sự khu công trường này trở nên sống động và thành kỷ niệm khó quên của bao thế hệ người trẻ Sài Gòn khi xa thành phố là cuộc trùng tu, tôn tạo từ năm 1972.
Cụ thể là việc dựng thêm giữa hồ các cột bêtông cao vút. Trên mỗi cột là năm bàn tay xòe ra đón đỡ một nhụy hoa bêtông nhỏ và thanh mảnh bên trong.
Bên ngoài là vòng xoay giao thông, bên trong hồ cũng là một hệ thống đường đi bêtông xoắn ốc theo vòng xoay, hướng tới các trụ bêtông và một bia Bêtông ghi tên những nước công nhận Việt Nam Cộng hòa lúc ấy.
Bia ghi tên được thiết kế đặt trên một con rùa lớn bằng hợp kim đồng mà đám học trò chúng tôi khi đến đây đều leo lên cỡi và nghịch phá. Nhiều người khi đến đây chơi cũng tranh thủ chụp hình với con rùa này.
Thế là hồ Con Rùa ra đời, dù tên gọi chính thức của nó cho đến nay vẫn là Công trường Quốc Tế. Thậm chí khi con rùa đồng không còn sau một vụ phá hoại sau năm 1975, người ta vẫn gọi đó là hồ Con Rùa - dù hồ không hề có con rùa thật lẫn rùa đồng nào.
Thỉnh thoảng cũng có bạn trẻ tinh nghịch thả rùa phóng sinh vô đó, nhưng làm sao những chú rùa tội nghiệp này có thể sống trong một cái hồ toàn bêtông và thường được làm vệ sinh.
Xin không nói những huyền thoại hư hư thực thực về long mạch, về trấn yểm của tổng thống Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ, có thể nói hồ Con Rùa mà những bạn trẻ tìm đến hiện nay có một thiết kế rất táo bạo.
Trong đó ngay khi vừa ra đời 1972, công trình này từng bị la hoảng khi những con đường đi trên hồ uốn lượn mà không hề có lan can phòng chống... té hồ.
Thế nhưng từ khi đưa vào sử dụng năm 1972 đến nay, chuyện té hồ hình như chưa bao giờ là vấn nạn cần phải xem xét, dù có thể thỉnh thoảng cũng có ai đó hụt chân té xuống cái hồ... cạn sợt này.
Cùng chúng tôi đi trên các con đường bêtông nổi lát đá rửa (để bám chân - được làm rất chắc chắn, giờ vẫn vững chắc sau gần nửa thế kỷ trên mặt hồ và đội mưa nắng), kiến trúc sư trẻ Đậu Việt Đức (Công ty CP nhà Hưng An, Q.Bình Thạnh) nhận định: "Vị kiến trúc sư thiết kế nơi đây đã khéo léo dẫn dắt tầm nhìn của người đi trên các con đường xoắn ốc trên hồ đến khu trung tâm (các cột bêtông và bia rùa) nên đã ít nhiều hạn chế tai nạn té hồ".
Theo anh, "đây là thiết kế đơn giản nhưng lãng mạn một cách rất táo bạo - giữa một Sài Gòn ít nhiều chú trọng công năng, hình khối lúc ấy; nhất là thực hiện ở một khu vực dành cho bao người qua lại hằng ngày".
Và nét lãng mạn ấy với thử thách của thời gian đã được xác nhận bởi bao thế hệ bạn trẻ, học trò, người dân Sài Gòn tìm đến, nhớ về; như một trong những địa điểm đáng yêu nhất Sài Gòn.
...Như buổi sáng cuối tuần bình thường 29-10, khi chúng tôi đến đây, hàng trăm bạn trẻ đang ngồi bên nhau xung quanh và bên trong. Một gia đình trẻ cùng hai con nhỏ tung tăng bước vô. Rồi một cặp bạn trẻ đôi mắt ngời hạnh phúc bước lên khối cầu thang trên hồ chụp hình đám cưới...
Cù Mai Công
Chiếc lưới, căng rộng như một chiếc võng lớn, bao trùm toàn bộ khu vực thi công, mang lại sự bảo vệ cả về thể chất lẫn tinh thần cho các công nhân. Dù nguy cơ ngã vẫn luôn hiện hữu, nhưng biết rằng lưới đã sẵn sàng giúp họ yên tâm hơn khi làm việc. Nhờ sáng kiến này, 19 công nhân đã được cứu sống – những người mà nếu không có lưới, chắc chắn sẽ rơi xuống vịnh và không qua khỏi.
Giải pháp lưới an toàn đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử bảo vệ lao động, tạo ra ảnh hưởng lớn đến các dự án xây dựng về sau và thiết lập tiêu chuẩn mới về an toàn công trường. Trước đây, trong các công trình lớn, công nhân chỉ dựa vào dây đai đơn giản, và tai nạn ngã thường dẫn đến hậu quả nặng nề. Việc áp dụng lưới an toàn trên Cầu Cổng Vàng không chỉ trở thành chuẩn mực cho các dự án tương lai mà còn thể hiện sự sáng tạo, dũng cảm và tinh thần đoàn kết của những người đã góp phần dựng nên biểu tượng này.
Sáng kiến lưới an toàn đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thành một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng nhất thế giới, đồng thời nhấn mạnh giá trị của việc đảm bảo an toàn lao động và sự cải tiến trong các tiêu chuẩn xây dựng.
Tháp quan sát Eilat Princess, còn được biết đến với tên Công viên Biển Quan sát Dưới Nước, nằm tại Eilat, Israel, dọc theo bờ biển Biển Đỏ. Tháp được xây dựng vào năm 1974 và là một trong những công trình đầu tiên kiểu này, cho phép du khách có thể đi xuống Biển Đỏ và quan sát cuộc sống dưới biển mà không cần phải lặn. Tháp quan sát này kéo dài sáu mét dưới mặt nước, mang đến tầm nhìn 360 độ độc đáo về các rạn san hô và các loài sinh vật biển xung quanh.
Khu vực quan sát này là một phần của công viên biển rộng lớn hơn, bao gồm các triển lãm khác nhau, bể cá và các khu trưng bày giáo dục tập trung vào sự đa dạng sinh học phong phú của Biển Đỏ. Tháp Eilat Princess là một điểm đến du lịch nổi tiếng và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và giáo dục về biển ở khu vực này, góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường biển cho cả du khách và người dân địa phương.
Gần một thế kỷ trước, Henry Ford đã chế tạo một chiếc ô tô làm từ nhựa cây gai dầu và chạy bằng nhiên liệu từ cây gai dầu. Chiếc xe mang tên "bioplastic Model T" được sản xuất vào năm 1941 từ các nguyên liệu tự nhiên như gai dầu, lanh, lúa mì và bột gỗ vân sam. Theo báo The New York Times ngày 2 tháng 2 năm 1941, chiếc xe này nhẹ hơn sợi thủy tinh và cứng gấp mười lần so với thép. Đặc biệt, nó chạy bằng nhiên liệu ethanol được chiết xuất từ cây gai dầu hoặc các loại phế phẩm nông nghiệp khác.
Ý tưởng của Ford không chỉ nhằm mục tiêu giảm trọng lượng xe và tăng độ bền, mà còn góp phần vào việc giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguyên liệu hóa thạch, khi sử dụng các loại nhiên liệu tái tạo từ nông nghiệp. Ford tin rằng việc sử dụng các nguồn nguyên liệu tái tạo và nông nghiệp sẽ giúp bảo vệ môi trường và giảm thiểu tác động tiêu cực từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Mặc dù chiếc xe này không được sản xuất rộng rãi và ý tưởng đã không phát triển xa hơn vào thời điểm đó, nó vẫn là minh chứng cho tầm nhìn tiến bộ của Henry Ford trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên bền vững và thân thiện với môi trường. Ngày nay, những nỗ lực phát triển xe hơi từ nguyên liệu tái tạo và thân thiện với môi trường đã trở lại, cho thấy tầm nhìn xa của Ford vào giữa thế kỷ trước.
Vào đầu thế kỷ 20, lính cứu hỏa đã sử dụng xe đạp để tuần tra khắp thành phố và kịp thời ứng phó với các vụ cháy trước khi chúng lan rộng. Những chiếc xe đạp chuyên dụng này được trang bị đầy đủ thiết bị chữa cháy, bao gồm vòi nước, đầu phun chữa cháy, hộp công cụ, rìu, còi báo động, mũ bảo hiểm và đèn chiếu sáng carbine. Đây là những phương tiện vô cùng quan trọng, giúp lính cứu hỏa di chuyển nhanh chóng đến hiện trường các vụ cháy, đặc biệt là ở những khu vực đông đúc và chật hẹp.
Xe đạp cứu hỏa được sản xuất bởi Birmingham Small Arms (BSA) ở Anh, nổi tiếng với những sản phẩm chất lượng cao. Thiết kế của xe đạp cứu hỏa rất đặc biệt, với tay cầm, bàn đạp và hệ thống phanh bánh trước bằng gỗ, giúp đảm bảo tính linh hoạt và bền bỉ trong quá trình sử dụng.
Việc sử dụng xe đạp trong công tác cứu hỏa phản ánh sự linh hoạt của đội ngũ lính cứu hỏa, và là một phần quan trọng trong lịch sử phát triển các phương tiện cứu hộ đô thị. Ngày nay, hình ảnh lính cứu hỏa sử dụng xe đạp để làm nhiệm vụ là một dấu ấn độc đáo, thể hiện sự sáng tạo và quyết tâm trong việc bảo vệ an toàn cho cộng đồng.
Xe đạp BSA được biết đến trong lĩnh vực cứu hỏa, và nổi tiếng với các dòng xe đạp và xe máy quân sự sử dụng trong các cuộc chiến tranh. Những thiết kế đơn giản, bền bỉ và chức năng đa dạng của BSA đã giúp nó trở thành một biểu tượng trong lịch sử phát triển của ngành công nghiệp xe đạp.
Pane e Vino - 3 Nguyễn Khắc Cần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét