Cuộc chạm trán với một megalodon sống trên con tàu "Seesturm" đã trở thành câu chuyện ly kỳ nhất đầu thế kỷ XX. Khi đang lênh đênh trên Biển Bắc, các ngư dân người Đức bất ngờ phát hiện một hiện tượng kỳ lạ: một cái bóng khổng lồ lướt dưới mặt nước, lớn hơn bất kỳ sinh vật nào họ từng thấy.
Ban đầu, họ nghĩ đó có thể là một đàn cá khổng lồ hoặc một con cá voi lớn. Nhưng khi sinh vật trồi lên mặt nước, họ chết lặng khi nhận ra đó là một con cá mập khổng lồ, kích thước vượt xa mọi loài hiện đại. Đó chính là megalodon, loài cá mập khổng lồ tưởng chừng đã tuyệt chủng từ hàng triệu năm trước. Với những dụng cụ thô sơ như lao móc, dây thừng và một chút liều lĩnh, các ngư dân đã chiến đấu suốt nhiều giờ để khuất phục con quái vật, bất chấp biển động và sự hung hãn của nó.
Khi đưa được con megalodon về cảng, tin tức lan truyền nhanh chóng. Hàng ngàn người đổ về để tận mắt chứng kiến sinh vật huyền thoại. Ban đầu, giới khoa học nghi ngờ và cho rằng đây chỉ là tin đồn. Tuy nhiên, các bằng chứng từ mẫu vật đã khiến họ phải kinh ngạc. Con megalodon này chính là một hóa thạch sống, làm dấy lên câu hỏi về những loài sinh vật bí ẩn vẫn còn tồn tại dưới đáy đại dương.
Các ngư dân trên tàu "Seesturm" từ những con người bình thường bỗng chốc trở thành huyền thoại. Tên tuổi của họ gắn liền với cuộc gặp gỡ lịch sử này. Con megalodon trở thành biểu tượng của những điều kỳ diệu mà đại dương sâu thẳm có thể cất giữ.
Câu chuyện không chỉ là minh chứng cho lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên vĩ đại, mà còn là lời nhắc nhở rằng dưới làn nước tối tăm, thế giới vẫn ẩn chứa vô vàn bí ẩn chưa được khám phá. Một huyền thoại bất diệt, gợi mở niềm đam mê chinh phục và khám phá những điều không tưởng của nhân loại.
Plutos Hot Deal 365 - Cùng bạn chạm đến những tuyệt tác văn hóa!
Bạn có biết rằng cầu Coronado, nằm ở San Diego, California, là một cầu vòm bằng bê tông mang tính biểu tượng, kết nối thành phố San Diego với đảo Coronado không?
Khi mở cửa vào năm 1969, cầu dài 3.4 km (2.1 dặm) và cao 61 mét (200 feet) so với vịnh San Diego tại điểm cao nhất, cho phép các tàu lớn đi qua bên dưới.
Thiết kế cong vòm của cầu được thiết kế nhằm kéo dài chiều dài cầu và tránh dốc quá dốc, giúp cho các phương tiện dễ dàng vượt qua. Cầu Coronado không chỉ là một biểu tượng kiến trúc quan trọng của khu vực mà còn cung cấp tầm nhìn toàn cảnh tuyệt đẹp về vịnh, trung tâm thành phố San Diego và Thái Bình Dương.
Du khách đến San Diego thường ghé thăm cầu Coronado không chỉ để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của kiến trúc mà còn để trải nghiệm không gian xung quanh, với những hoạt động như đi bộ, đạp xe hoặc đơn giản là ngắm cảnh. Cầu còn là một trong những địa điểm lý tưởng để chụp ảnh, đặc biệt là vào lúc hoàng hôn khi ánh sáng mặt trời phản chiếu trên mặt nước, tạo nên những khung cảnh tuyệt đẹp.
Pane e Vino - 3 Nguyễn Khắc Cần
Lịch sử Lycée Chasseloup - Laubat (về sau là Lycée Jean-Jacques Rousseau và Trường trung học Lê Quý Đôn)
(Trường trung học công lập theo học từ năm 1966 đến năm 1970)
École normale indigène (Trường Sư phạm bản xứ) được thành lập theo nghị định ký ngày 10 tháng 7 năm 1871, nhưng ngôi trường được xây cất ở địa điểm này là Collège indigène de Saïgon (Trường bản xứ Saigon) được thành lập theo nghị định ký ngày 14 tháng 11 năm 1874. Công việc xây cất được tiến hành khẩn trương ở ngã tư đường Chasseloup Laubat (đường Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay) và đường Nam Phương hoàng hậu (Nam Kỳ Khởi nghĩa hiện nay) gần chùa Barbé (Bảo tàng Chứng tích chiến tranh hiện nay). Honoré Wattebled, vị hiệu trưởng sáng lập trường, và đội ngũ giáo viên châu Âu muốn đào tạo theo một chương trình 3 năm “các học sinh An Nam xuất thân từ những gia đình danh giá” với mục tiêu cung cấp những người phiên dịch và những viên chức cho các cơ quan công quyền, các kỹ sư cầu cống, các nhân viên địa chính và bưu điện. Các học sinh tốt nghiệp hạng ưu ở trường có thể nhận học bổng để du học ở nước ngoài và “hằng năm những học sinh An Nam xuất sắc nhất sẽ được đưa đến thành phố Marseille của Pháp bằng chi phí của thuộc địa để hoàn tất việc học”.
Vào năm 1877, Collège indigène được đặt tên giống như con đường phía trước là François, Marquis de Chasseloup-Laubat (1754-1833), vị tướng và kỹ sư công binh của Pháp. Đến năm 1879, Collège Chasseloup-Laubat có 83 học sinh, và sau khi Collège d’Adran đóng cửa vào năm ấy, nó đã trở thành một trường trung học có quy chế giống như Collège de Mytho (Trường trung học Mỹ Tho). Các học sinh Pháp đầu tiên được nhận vào trường vào năm 1880 và ngay sau đó, các phòng ốc trong khuôn viên trường được nâng cấp để học sinh Pháp và học sinh An Nam có thể học ở 2 khu riêng biệt: Quartier Européen (khu Châu Âu) dành cho các học sinh Pháp và “Quartier Indigène” (khu Bản xứ) dành cho các học sinh An Nam được ngǎn cách bằng những bếp ăn, nhà tắm, hồ bơi và những lối đi riêng. Các công trình kiến trúc còn lại đến nay đã được xây dựng vào thời kỳ này theo phong cách kiến trúc của một trường trung học công lập của Pháp với rất ít nỗ lực thích nghi với khí hậu nhiệt đới nóng bức ngoài những hành lang thoáng mát và trần nhà cao.
Những năm sau đó, số học sinh tăng dần từ 180 vào năm 1884 lên 200 vào năm 1903 và 290 vào năm 1924. Tuy nhiên vào đầu thập niên 1920, số học sinh châu Âu không tới 50 vì chương trình học tại đây không đầy đủ, các học sinh Pháp và An Nam phải ra Bắc Kỳ hoàn tất việc học để thi tú tài. Sự thiếu vắng một nền giáo dục cho các học sinh châu Âu ở Nam kỳ đã được ghi nhận bởi Toàn quyền Paul Beau (1902-1908): “Vấn đề này cần được chúng ta quan tâm vì nó liên quan tới tương lai của thuộc địa của chúng ta”. Tuy nhiên phải đến năm 1924, chương trình học ở Collège Chasseloup-Laubat mới được hoàn thiện để học sinh có thể thi tú tài tại Sài gòn. Năm 1924 ấy, trường cũng bắt đầu thâu nhận những học sinh châu Âu và An Nam có năng khiếu từ 9 tới 12 tuổi qua một kỳ thi tuyển.
Các sinh viên, học sinh An Nam có vai trò tích cực trong phong trào chống thực dân Pháp vào năm 1926 và Collège Chasseloup-Laubat đã trở thành một trong những điểm nóng. Phong trào lên đến đỉnh điểm vào ngày 4 tháng 4 năm 1926, ngày tang lễ của Phan Châu Trinh, các học sinh của Collège Chasseloup-Laubat đã viết lên bảng đen 4 chữ ABLF (À Bas Les Français - Đả đảo người Pháp!) và tham gia phong trào bãi khóa của sinh viên, học sinh tại Sài gòn. Tờ nhật báo L’Éveil économique de l’Indochine đã viết: “Thật đáng tiếc khi các cơ sở giáo dục ưu tú của Pháp và bản xứ bị tác động ghê gớm như vậy. Tình trạng vô kỷ luật trong trường học, hình thái vô kỷ luật nền tảng, là điều không thể chấp nhận được!”
Năm 1927, Collège Chasseloup-Laubat được nâng cấp để trở thành trường trung học công lập mang tên Lycée Chasseloup-Laubat. Tháng 11 năm ấy, 200 học sinh bản xứ được chuyển qua Collège de Chợ Quán, một phân hiệu của Lycée Chasseloup-Laubat. Tuy nhiên đến tháng 8 năm 1928, Collège de Chợ Quán cũng trở thành một trường trung học lấy tên Lycée Pétrus Ký.
Vào cuối thời kỳ Pháp thuộc, Lycée Chasseloup-Laubat đã là một trường trung học danh tiếng đào tạo những học sinh về sau có tên tuổi như Trần Văn Giàu (1911-2010), nhà văn Marguerite Duras (1914-1996), tướng Dương Văn Minh (1916-2001), Quốc vương Norodom Sihanouk của Cambodia (1922-2012) và học giả Vương Hồng Sển (1926-1996). Khi phát xít Nhật chiếm Đông Dương, trường trở thành nơi tạm cư của những người tị nạn. Sau khi thực dân Pháp rời Đông Dương, trường vẫn do người Pháp điều hành, nhưng đến năm 1958 đã đổi tên thành Lycée Jean-Jacques Rousseau. Năm 1970, trường được chuyển giao cho Bộ Giáo dục miền Nam và đổi tên thành Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn.
(Dịch bài “Old Saigon Building of the Week – Former Lycée Chasseloup-Laubat, 1877” của anh Tim Doling)
Bài viết của nhà sử học Tim Doling: https://www.historicvietnam.com/former-lycee-chasseloup.../
Ảnh: Lycée Jean-Jacques Rousseau, Collège Chasseloup -Laubat và Trường trung học Lê Quý Đôn hiện nay
Vào đầu những năm 1900, Pierre và Marie Curie là những người đi đầu trong nghiên cứu khoa học mang tính đột phá.
Trong bức ảnh hiếm có này chụp vào khoảng năm 1904, chúng ta thấy cặp đôi chuẩn bị đạp xe, một khoảnh khắc bình dị của hai cá nhân có những phát minh làm thay đổi mãi mãi về lĩnh vực y học, hóa học và vật lý.
Marie Curie, sinh ra ở Ba Lan, là một nhà vật lý và hóa học tiên phong, nổi tiếng với khám phá về phóng xạ, một thuật ngữ bà đặt ra, và những đóng góp của bà cho nghiên cứu về bức xạ. Cùng với chồng là Pierre, bà đã làm việc không biết mệt mỏi để thúc đẩy nghiên cứu do Henri Becquerel khởi xướng, dẫn đến việc phát hiện ra các nguyên tố polonium và radium vào năm 1898.
Vai trò của Marie Curie trong những khám phá này là vô cùng to lớn, vì bà đã thực hiện phần lớn công việc khó khăn cần thiết để cô lập các nguyên tố phóng xạ này. Những cuốn sổ tay của bà, vẫn còn chất phóng xạ để xử lý cho đến ngày nay, là minh chứng cho những rủi ro mà bà đã chấp nhận trong quá trình theo đuổi kiến thức.
Mặc dù phải đối mặt với những thách thức đáng kể với tư cách là một người phụ nữ trong một lĩnh vực do nam giới thống trị, Curie đã phá vỡ các rào cản trong suốt sự nghiệp của mình, trở thành người phụ nữ đầu tiên lấy bằng tiến sĩ tại Pháp. Năm 1903, bà cùng chồng và Henri Becquerel chia sẻ Giải Nobel Vật lý cho công trình nghiên cứu về phóng xạ.
Sau cái chết bi thảm của Pierre năm 1906, Marie tiếp tục công việc của mình, đóng góp nhiều hơn nữa cho khoa học. Giải Nobel thứ hai của bà, được trao vào năm 1911, là cho khám phá ra radium và polonium và công trình đột phá của bà trong lĩnh vực hóa học. Bức ảnh chụp cặp đôi Curie này, do Jacques Boyer chụp, hé lộ cuộc sống của họ ngoài phòng thí nghiệm—một khoảnh khắc hiếm hoi và riêng tư đối với hai nhà khoa học nổi tiếng nhất trong lịch sử.
SƯU TẦM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét