.

.

a

Hoa đào nở, chim én về, mùa xuân lại đến. Chúc quý thầy cô và anh chị em đồng môn năm mới Giáp Thìn : - nghìn sự như ý, vạn sự như mơ, triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc.
THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ, ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU - MỘT NĂM MỚI AN KHANG THỊNH VƯỢNG - VẠN SỰ NHƯ Ý

24 tháng 4 2021

MÓN ĂN SAIGON: CÀ-PHÊ SAIGON..

 Anh chị thân mến,

Việt Nam là một trong những xứ trên thế giới có một di sản khá đặc biệt: đó là ẩm thực. Thức ăn ở Việt Nam mỗi miền một khác. Trong mỗi miền, mỗi tỉnh, mỗi quận  có vài thay đổi tuy là cùng tên món ăn. Tuy nhiên, thỉnh thoảng ta bắt gặp vài món thức ăn tiêu biểu của vùng miền: thí dụ: phở, bún riêu, bún thang, chả cá, bún ốc phải là ở Bắc mới ngon. Bún bò, cơm âm phủ, bánh bèo Huế, mì Quảng, nem nướng Ninh Hòa. Trong Nam,  món ngon, món lạ  nhiều lắm, đếm không xiết: bún mắm Sóc trăng, Bánh canh Trảng Bàng, Hủ Tiếu Mỹ Tho, Nem Thủ Đức,  gỏi củ hủ dừa Bến Tre, v.v

Vậy thì Sài gòn có món gì đặc biệt khi chúng ta ăn phải nhớ, không tài quên nà nét đặc thù của nó.  Nói cho cùng Saigon là Tạp Pí Lù.  Cái gì ngon nhất nước đều có mặt. Không phải nó xuất hiện trong những căn phố cải trang thành quán ăn, hay những nhà hàng khá nổi tiếng, có khi dân gian một chút trong những gánh hàng rao. Những bà mẹ quang gánh trên đôi vai gầy gọt; những bà mẹ thức khuya dậy sớm, bước đi nhẹ nhàng cho dù quang gánh nặng như thế nào, mang những món ăn đi tận cùng ngõ hẻm. Với tiếng rao hàng quen thuộc. tiếng mời mọc vô cùng ấm áp, ngọt như mía lùi :” Cô Hai, cậu Tư, má Bảy, chú Ba mở hàng dùm em”.

 Ít có ai nghỉ bao nhiêu đứa trẻ được lớn lên, nuôi dưỡng bằng từng chén, từng tô bán cho khách chỉ có giá trị chưa tới vài ba đồng. Nói là mồ hôi nước mắt thật không sai vì quả nó thật đắng cay cho phận người người nhất là người đàn bà với gánh nặng quằn vai.. Đêm về đếm số tiền thu được trong ngày cũng biết nắng mưa là bệnh của trời và bẻ báng là  duyên phận con người. Có mấy ai nhìn bà mẹ gánh hàng mà nghĩ tới nỗi ê chề chịu đựng và sức phấn đấu phi thường ấy chăng?

 Các món ăn đó bày bán trên lề đường, trong những sạp bày bán trong nhà lồng chợ từ tinh sương.  Khách hàng tíu tít ngồi chồm hổm trên chiếc ghế đẩu thấp với những món ăn sáng, trưa, chiều, tối. Các món ăn khác (dưa hấu , mía hấp) trên những chiếc xe ba gác dưới ngọn đèn khí đá héo hắt, đẩy đi khắp nẻo đường Saigon..v.v

Saigon cũng là nơi mà người tứ xứ mang thực phẩm của quê hương mình đến Tây có, Tàu có, Ấn có. Cũng có món Bắc, món Trung, muốn tìm không phải không có.

Cho nên khó mà nói Sài Gòn có những món gì đặc biệt. Thôi thì tôi biết tới đâu viết tới đó. Có thể có anh chị không đồng ý, nhưng biết làm sao? Vì thuở nhỏ tôi là con công chức nhỏ, hơi nghèo, chỉ được nhâm nhi món hàng vặt mà thôi, hiếm khi được người lớn dẫn tới tiệm ăn sang trọng. Tuy nhiên, tôi cố moi ra trong trí nhớ nhưng hàng quán đặc biệt chia sẻ cùng anh chi. Nói cho cùng, Saigon to lớn như Hòn Ngọc Viễn Đông làm sao mà tôi biết hết, nếu có điều gì thiếu sót xin anh chị bỏ qua và bổ túc đóng góp cho thêm phần thú vị.

Tiểu mục 8 kỳ này gồm:

             - Cà phê Saigon

             - Bánh mì Saigon

            -  Ký ức thú vị:  Ăn Hàng Vặt ở Saigon

            - La cà những quán ăn Saigon

Lê minh Đức

                                Bài  1

                           CÀ PHÊ SAIGON

Hồi xửa hồi xưa . . . có một dạo, ở Sài Gòn người ta gọi cà phê là “cà phe”, đi uống cà phê là đi uống “cà phe” với giọng điệu rất là ngộ nghĩnh. .Tiếng Tây gọi cà phê là Café, tiếng Anh là Coffee nhưng mấy xì thẩu Chợ Lớn thì gọi là “cá phé”. Vậy thì café, coffee, cà phê, cà phe hay là cá phé muốn gọi sao thì gọi nhưng ai cũng hiểu đó là món thức uống màu đen có hương vị thơm ngon, uống vào có thể tỉnh người nếu uống quá đậm có thể thức ba ngày không nhắm mắt .

TRỞ VỀ THẬP KỶ 50: CÀ PHÊ VỚ

 Từ năm 1900, hồi đó người Sài Gòn chưa ai biết kinh doanh với nghề bán cà phê cả. “Xếp sòng” của ngành kinh doanh có khói này là do các xếnh xáng tên nghe rất Chệt:  A Hoành, A Coón, chú Xường, chú Cảo. Họ là chủ các tiệm hủ tiếu, bánh bao, há cảo, xíu mại. Vô bất cứ tiệm hủ tíu nào vào buổi sáng cũng có bán món, cà phê, cà phê đi kèm để khách có thể ngồi đó hàng giờ nhâm nhi bàn chuyện trên trời dưới đất.

Hồi đó chẳng ai biết món cà phê phin là gì đâu? Các chú Xường, chú Cảo, A Xứng, A Hía chỉ pha độc một loại cà phê vớ. Một chiếc túi vải hình phễu được may cặp với một cọng kẽm làm vành túi và cán. Cà phê bột đổ vào túi vải (gọi là bít tất, hay vớ đều được). Vì chiếc dợt cà phê này hơi giống như chiếc vớ dùng để mang giày nên “dân chơi” gọi đại là cà phê vớ cho vui. Chiếc vớ chứa cà phê này sau đó được nhúng vào siêu nước đang sôi, lấy đũa khuấy khuấy vài dạo xong đậy nắp siêu lại rồi. Tiếng lóng bình dân gọi là Kho Cà Phê. ”Kho” độ năm mười phút mới có thể rót ra ly mang ra cho khách. Chính cách pha chế rất độc đáo không nước nào quốc gia nào trên thế giới có được.Duy chỉ có ở Saigon và Lục tỉnh miền Nam  mà thôi.  Dân ghiền cà phê còn gọi nó là cà phê kho bởi chỉ ngon lúc mới vừa “kho nước đầu”. Nếu ai đến chậm bị kho một hồi cà phê sẽ đắng như thuốc Bắc.


Có mấy khu vực có những con đường quy tụ rất nhiều tiệm cà phê hủ tíu. Ở Chợ Cũ có đường MacMahon (đọc là đường Mạc Má Hồng, nay là đường Nguyễn Công Trứ) có rất nhiều tiệm cà phê kho từ sáng đến khuya. Khu Verdun – Chợ Đuổi (nay là Cách Mạng Tháng 8) cũng đáng nể bởi cà phê cà pháo huyên náo suốt ngày.

Ở bùng binh Ngã Bảy (góc Phan Thanh Giản và Minh Mạng) có một tiệm cà phê hủ tíu đỏ lửa từ 4 giờ sáng cho đến tận 12 giờ đêm. Còn nếu ai đi lạc vào khu Chợ lớn còn “đã” hơn nhiều bởi giữa khuya vẫn còn có thể ngồi nhâm nhi cà phê, bánh bao, bánh tiêu, dò-chả-quải đến tận sáng hôm sau. .

TRANG TRÍ CHUNG CỦA CÁC TIỆM CÀ PHÊ HỦ TÍU TÀU

Sách phong thủy Tàu thường khuyên không nên cất nhà ở ngã ba, ngã tư đường vì dễ bị nạn xui xẻo nhưng các chú Xường, chú Hía. A Hoành. A Cón . . . thì đều chọn các nơi này làm chỗ kinh doanh. Tuy Sài Gòn, Chợ lớn, Gia Định. Phú Nhuận, Đa Kao hàng trăm tiệm cà phê hủ tíu Tàu nhưng nhìn chung chúng đều có một kiểu cách khá giống nhau tức là quán nào ở phía trước cửa cũng có một xe nấu hủ tiếu được làm bằng gỗ thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên của xe được trang trí bằng những tấm kính tráng thủy vẽ những nhân vật Quan Công, Lưu Bị, Triệu Tử Long, Trương Phi trong truyện Tam Quốc Chí khá vui mắt. Bên trong quán hoặc xếp bàn tròn hoặc vuông. Khách vừa vào trong gọi “cá phé”, song mấy tay phổ ky vẫn bưng ra một mâm nào bánh bao, xíu mại, há cảo, dà chá quải đặt trên bàn. Khách dùng hay không cũng chẳng sao “pà – con – mà!”


UỐNG CÀ PHÊ PHẢI BIẾT CÁCH (Phong cách uống cà phê xây chừng)

Như đã nói ở trên, hồi đó không có cà phê ta.. mà chỉ có cà phê Tàu . Vì thế uống cà phê Tàu phải có một phong cách riêng. Phong cách này làm ngạc nhiên các anh chị miền Bắc di cư. Đó chẳng qua là đặc điểm của uống cà –phê kiểu người Saigon và Lục Tỉnh

Cà phê được mang ra dân “sành điệu”, hồi đó ngồi chân dưới chân trên, sau khi khuấy nhẹ cho tan đường bèn đổ ly cà phê ra cái đĩa đặt phía dưới. Chưa uống vội, khách chậm rãi mồi điếu thuốc rít vài hơi để chờ cà phê nguội. Bàn tay phải nhón lấy cái đĩa đưa lên miệng và húp sì sụp: “Uống vậy mới khoái, mới đúng kiểu của dân từng trải. Có nhâm nhi với bánh bao xíu mại, bánh mì.


Dòng cà phê . với cà phê kho…. lững lờ trôi như thế hằng nhiều năm trước là như thế, cứ vào tiệm hủ tíu mà uống cà phê đổ ra đĩa rồi sì sụp húp thì được xem như đó là phong cách của dân chơi sành điệu mãi đến thập niên 60 từ từ bán ở ngõ hẻm và biến dần đi. Không biết nên gọi một thứ văn hóa không nhỉ ?

CÀ PHÊ PHIN     

   Nhưng rồi cái quan điểm húp cà phê trên đĩa mới . . . “sang” cũng đến lúc phải lụi tàn, vì bị chê là kiểu uống bình dân, của dân khuân vác bán bưng. Sang trong hơn, người uống trong ly thủy tinh tròn thấp như vậy cung hơn vài chục năm cho tới  khi trào lưu cà phê phin (filter) bắt đầu xuất hiện và đã làm biến dạng cái kiểu uống cà phê trong tiệm hủ tíu.



 CÀ PHÊ PHIN     

Cà-phê phin thì ai cũng biết không biết ai chế tao bình lọc cà phê này , đơn giản là bột cà-phê xay nhuyễn bị ép phía dưới cái phin, rồi đổ nước sôi trên đó, để cho nước ngấm dần vào cái ly phía dưới, càng nện chặt nước ngấm càng chậm.  Cà phê nhỏ xuống ly càng chậm và đặc quánh lại. Người ngồi uống càng thong thả chờ đợi, ngồi rung đùi đọc báo. Nếu ngồi dưới mái hiên hay sát khung cửa ngắm thiên hạ qua lại trên vỉa hè thì không có gì thú bằng



Vào thập niên 60 Nhà hàng Kim Sơn (nằm trên góc Lê Lợi-Nguyễn Trung Trực) mở cú đột phá ngoạn mục bằng cách bày bàn ghế ra hàng hiên dành cho các văn nghệ sĩ trẻ chiều chiều ra đó bàn chuyện văn chương và.  rửa con mắt. Hồi đó, cà phê Kim Sơn chỉ có một đồng một cốc bằng giá vé xe buýt dành cho học sinh. Mặc dù chủ quán Kim Sơn lúc đó vẫn là người Hoa  bắt chước  kiểu cà phê hè phố của dân Paris (Pháp).

Kim Sơn biết tận dụng ưu thế chiếm lĩnh một góc ngã tư, nhìn rộng ra bốn phía quá lý tưởng cho cà phê hè phố. Cái phin đã trở nên quen thuộc, thanh nhã và nên thơ hơn cái vợt cái vớ của cà phê kho trên cái siêu đất thời xưa.

   Uống cà phê vào những giờ hoàn toàn thư giãn trong lúc vừa nhâm nhi từng ngụm nhỏ cà phê đặc sánh vừa ngắm quang cảnh sôi động đông vui của đường phố vô cùng lý thú. Thuở ấy con đường Lê Lợi vẫn còn những hàng me. Vào những ngày me thay lá, dưới ánh nắng chiều phớt nhẹ, lá me vàng khô rơi tản mạn như hoa “com-phét-ti” lấp lánh làm cho đường phố trở nên. . . “mộng mị” và thơ. . .


Thời điểm này những nhà văn, nhà báo. các nhà doanh nghiệp tên tuổi cũng có những quán cà phê sang trọng xứng tầm với địa vị của họ. Những La Pagode, Brodard, Givral, Continental là nơi gặp gỡ và cũng là cái mode của giới thượng lưu Sài Gòn.

                                                
CÀ PHÊ TÂY

Cà phê La Pagode khách không ngồi ghế sắt ghế gỗ mà ngồi trên những salon bọc da vừa hưởng hương vị cà phê phin vừa nhìn ra con đường Catinat (nay là Đồng khởi) con đường đẹp và sang nhất của Sài Gòn. Cách La Pagode độ trăm mét Nhà hàng Continental cùng mở một không gian cà phê sang trọng . đúng phong cách “Phăng-se”. Đối diện Continental là tiệm cà phê Givral nơi nổi tiếng với những món bánh ngọt tuyệt hảo. Tiệm tràn ngập ánh sáng bởi những khung cửa kính nhìn ra Nhà Hát Lớn (nay là Nhà Hát TP) với một bầu trời khoáng đãng. Những nhà báo, văn nghệ sĩ thường ghé đây uống cà phê trước khi tỏa đi khắp nơi cho công việc riêng của họ.

                       
Còn một quán cà phê với một phong cách phương Tây như bàn ghế trang trí nội thất sang trọng cũng nằm trên con đường này là quán cà phê Brodard. Với một phong cách cũng gần giống với La Pagode, không gian Brodard yên tĩnh, ánh sáng thật nhạt để khách có thể thả hồn êm ả bên tách cà phê nóng hổi quyện hương thơm.

Có thể nói từ giai đoạn này người Việt Nam ở Sài Gòn “thức tĩnh” trước thị trường buôn bán cà phê mà từ lâu họ đã bỏ bê và đã để cho các chú Hoành, chú Koón, chú Xường. . . tự do khai thác. Họ bắt đầu nhập cuộc

Khi qua tay người Việt quán cà phê không còn luộm thuộm những cái “đuôi” mì, hủ tíu, hoành thánh, xíu mại, há cảo, bánh bao . . . nữa mà nó thuần túy chỉ có cà phê nhưng được chăm chút một cách tỉ mỉ hơn, biết tạo ra một không gian tao nhã hơn, thu hút hơn. Đó là những quán cà phê nhỏ bên đường.

CÀ-PHÊ QUÁN NHỎ

Sài Gòn những năm giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970 tuổi trẻ lớn lên và tự già đi trong chiến tranh. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng được nhấp vào và quán cà phê trở thành nơi chốn hẹn hò gặp gỡ hay đơn độc trăm lắng suy tư. Thêm vào đó phong trào nhạc trẻ, nhac trữ tình thâu sẵn: nhạc Phạm Duy, nhạc Trịnh Công Sơn, Lê uyên Phương. Vừa nhâm nhi tách cà phê nóng trong ánh đèn heo hắt liêu trai, vừa nghe nhạc từ đia hát, băng Magnetophone, trong khung cảnh  mờ mờ ảo ảo. Hay trong một căn phòng nhỏ với những chiếc bàn xinh xắn gọn ghẻ. Ngồi tán dóc, nghe nhạc, đọc báo. Càng về khuya..càng thấm thía nỗi niềm

                    Quán nửa khuya đèn mờ theo hơi khói

                    Chút tâm tư vào đêm vắng canh dài…

                    Quãng đời tôi tàu đêm vắng không người …vẫn lặng trôi

Quán cà phê loại bỏ túi đột nhiên nổi lên khắp nơi làm nhưng chàng trai trẻ có cảm giác chưa tới quán Cà phê này là chưa thành người lớn.

Cà phê Thu Hương đường Hai Bà TrưngQuán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn cà phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó xéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm, chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả.hoa giấy phủ rợp

Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa. Các nhóm làm thơ trẻ đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo chí Sài Gòn ngồi đồng từ sáng đến tối để... làm thơ

Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, kế khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Dakao. Ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè, trầm lắng cô liêu và êm ả

Những năm cuối thập niên 60 Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê mới, và thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếngCà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng..

Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng, khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh

Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kính cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa (Pagode), anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến  Quán Hầm Gióanh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưaở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp. Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêuhẻm Cao Thắng.

CAFÉTÉRIA  CA NHẠC

Để gần gũi hơn, thu hút khách hơn và cũng mang tính giải trí hơn, một số nơi đã tổ chức hình thức phòng trà ca nhạc theo dạng Cafétéria.
Cafétéria rộng thoáng hơn những “Tháp ngà” La Pagode, Brodard, Givral, Continental. . . nơi đây không phải chỗ để trầm tư, bàn luận chuyện đời mà hoàn toàn là chỗ vui chơi giải trí.
Trên đường Bùi Viện đầu những năm 60 mọc ra một cái quán với tên là Phòng trà Anh Vũ. Tuy là phòng trà nhưng có dựng một sân khấu nhỏ vừa cho một ban nhạc bỏ túi đệm đàn cho những ca sĩ tiếng tăm được mời đến trình diễn như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái .  Lúc đó phòng trà Anh Vũ là điểm hẹn của nhiều người dân Sài Gòn cũng như những văn nghệ sĩ sinh sống tại đây. Con đường chật hẹp Bùi Viện bỗng đêm đêm sáng lên rực rỡ ánh đèn Anh Vũ, người xe tấp nập đông vui.

Một Cafétéria khác theo cách của Anh Vũ cũng đã mọc lên bên cạnh rạp Ciné Việt Long (trên đường Cao Thắng) với tên Phòng trà Đức Quỳnh. Ca sĩ kiêm nhạc sĩ tóc dài Đức Quỳnh là chủ nhân của cái Cafétéria này. Đức Quỳnh với cây Piano và giọng ca trầm ấm của ông và những ca sĩ Minh Hiếu – Thanh Thúy, Phương Dung đã thu hút một số đông người yêu nhạc đêm đêm đến đây vừa giải khát vừa giải trí một cách tao nhã.

Rồi tiếp theo là Cafétéria Jo Marcel, trên đường Hai Bà Trưng, Đêm Màu Hồng trên đường Tự Do (nay là đường Đồng Khởi) thi nhau mọc lên đầy “Nền văn hóa ẩm thực” cà phê lên một tầm cao hơn, tức vừa uống cà phê vừa được thưởng thức những ca khúc do các ca sĩ, nhạc sĩ sống có tiếng trình bày.

Một Phòng trà ca nhạc khác cũng khó quên chính là phòng trà Bồng Lai nằm trên sân thượng của Nhà hàng Kim Sơn mở cửa hàng đêm từ 9 giờ tối. Ở đây khách thường xuyên được nghe giọng ca vàng đương thời, ấy là ca sĩ Anh Tuyết với bài hát “Ánh đèn màu” hoặc Cao Thái với  " Mexico".

Chắc chắn anh chị cùng đồng ý… 

CÀ PHÊ SAIGON cũng làm chúng ta lưu luyến không ít

Bài chuyển từ Quoc Quynh.


Hình độc về lăng Cha Cả ở Sài Gòn thập niên 1920.


Tuy Giám mục Bá Đa Lộc là người Pháp, nhưng lăng Cha Cả - nơi an nghỉ của ông - được xây theo kiểu Việt Nam, có bình phong, bái đường và hậu cung...

Toàn cảnh lăng Cha Cả ở Sài Gòn thập niên 1920. Đây là lăng mộ của giám mục Bá Đa Lộc, tục gọi là "Cha Cả".

Giám mục Bá Đa Lộc (1741-1799) có tên gốc là Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine - là một vị giáo sĩ người Pháp được Nguyễn Ánh trọng dụng trong việc lấy lại quyền bính từ tay nhà Tây Sơn vào cuối thế kỷ 18.

Sau khi thiệt mạng năm 1799 ở Thị Nại trong trận vây thành Quy Nhơn, vị giám mục này được Nguyễn Ánh đưa về an táng ở gần ngôi nhà cũ tỉnh Gia Định, tại khu Vườn Xoài, Tân Sơn Nhất phía Tây Bắc Sài Gòn.

Tuy Giám mục Bá Đa Lộc là người Pháp, nhưng kiến trúc lăng mộ ông được xây theo kiểu Việt Nam, có bình phong, bái đường và hậu cung.

Lăng nằm trong khuôn viên rộng khoảng 2.000 m2, có vách và cột làm bằng gỗ quý, mái lợp ngói.

Cận cảnh bình phong hình long mã phía trước lăng. Đến năm 1980, theo quy hoạch của TP HCM, lăng bắt đầu được giải tỏa.

Mặt sau của bình phong. Đến năm 1983, việc cải táng hoàn tất. Di hài của Giám mục Bá Đa Lộc và các nhà truyền đạo được giao lại cho tổng lãnh sự Pháp đưa về Pháp.

Bên trong lăng Cha Cả thập niên 1920. Sau bia đá là hậu cung. Sau khi cải táng, các công trình cũ của lăng được dỡ bỏ, chỉ còn lại điểm tròn làm vòng xoay lưu thông dưới cầu vượt trên đường Hoàng Văn Thụ ngày nay. Người dân khu vực này vẫn gọi là vòng xoay lăng Cha Cả.

T.B (tổng hợp)


NGUỒN GỐC ĐỊA DANH SÀI GÒN






Ngay từ đầu thế kỷ hai mươi, người Pháp đã nỗ lực để tìm biết nguồn gốc của địa danh Sài Gòn, tên của một thành phố mà qua phong cách lãng mạn tây phương họ biến nó thành “Hòn ngọc Viễn Đông” (La perle de l’Extrêm Orient), một cái tên đã được thông dụng từ lâu nhưng họ, và cả ta nữa, đều không biết nghĩa.
Vì thiếu tài liệu, tôi không thể trích dẫn tên của nhà học giả tiên phong đó, chỉ biết đại khái các điều sau đây. Ông ấy cho rằng Sài Gòn, người Cao Miên, chủ đất cũ của miền Nam nước Việt, gọi Là Prây Nokor. Prây là Rừng, Nokor là Quốc gia. Có thể Sài Gòn do âm của Prây Nokor mà ra chăng? Đây chưa hẳn là giả thuyết đáng tin cậy. Prây cũng có thể biến thành Sài. Nhưng Nokor có hơi khó biến thành Gòn lắm.
Riêng tôi thì tôi thấy giả thuyết này không đứng vững. Tôi biết cơ cấu của ngôn ngữ Cao Miên (tức Cam Bu Chia), nó không có khác cơ cấu Việt Ngữ, trừ một chi tiết nhỏ. Ta nói “ba con cá” thì họ nói cá ba con. Theo cơ cấu đó thì “Quốc gia rừng” phải là “Nokor Prây”, chớ không thể là Prây Nokor được. Mặt khác, người Chàm gọi Sài Gòn của ta là Prây Kor, chớ không hề là Prây Nokor. Prây Kor, cũng cứ là tiếng Cao Miên mà người Chàm vay mượn, có nghĩa là Rừng Bò. Có lẽ xưa kia ở đó người ta nuôi bò nhiều, trong rừng, hoặc là ở đó nhiều bò rừng.
Một ông Tây thứ nhì, cũng biết cơ cấu ngôn ngữ Cam Bu Chia như tôi, xác nhận rằng địa danh phải là Prây Ko, hoặc Prây Kor, chớ không thế nào mà là Prây Nokor được hết. Rừng quốc gia là cái gì? Người Cao Miên xưa đâu có biết khoanh rừng để tạo ra những cái National Forest như người Mỹ ngày nay. Nhưng cũng có đưa vào thuyết một điều mới lạ. Ông ấy cho là Ko, hoặc Kor, không phải chỉ có nghĩa là Bò, mà là có nghĩa là cây gòn, một thứ cây có công dụng y hệt như cây gạo của Bắc Việt.
Và ông ấy kết luận rằng Sài Gòn do Prây Kor biến ra. Prây biến ra Sài thì có thế chấp nhận được, nhưng Kor, sao không biến ra Cò, mà biến ra Gòn. Dịch chăng? Khó lòng mà có lý. Nếu dịch, thì dịch cả hai từ, chớ sao lại chỉ lấy âm từ thứ nhứt thôi, còn từ thứ nhì thì lại dịch?
Thế nên thuở ấy các nhà học giả ta mới xía vào, cho rằng xưa kia ta chặt cây gòn ở đó để làm củi chụm, mà Củi thì chữ nho là Sài. Thuyết của ta là cố gắng giúp cho thuyết thứ nhì của Tây có lý mà thôi, tức ta dịch cả hai từ, từ đầu Rừng, gượng gọi củi dịch ra chữ nho là Sài, còn từ sau Kor thì dịch ra tiếng Phù Nam là Gòn mà Nam Kỳ vay mượn.
Thiên hạ làm thinh sau thuyết của ta, vì không ai biết phải giải thích cách nào cho ổn hơn hai ông Tây và vài ông Việt nói trên. Nhưng nửa thể kỷ sau, sau năm 1954, thì có Vương Hồng Sển lên tiếng, không phải bằng một bài báo, mà bằng một quyển sách, quyển “Sài Gòn năm xưa”. Cụ Vương bác bỏ ba thuyết không vững trên kia. Theo cụ thì mọi việc xảy ra như sau, và có lấy tài liệu ở bộ sử địa Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức:
Trịnh Hoài Đức viết rằng sau khi Tây Sơn tàn phá thành phố lớn Nông Nại Đại Phố, ở Biên Hòa, thì người Tàu sống sót, trong đó có họ Trịnh, người Tàu lai, chỉ mới lên tám, chạy xuống phía dưới để lập ra một thành phố khác, nay truy ra là thành phố ấy là vùng Chợ Lớn ngày nay. Đa số người Tàu sống sót là người Quảng Đông. Họ đặt tên thành phố mới ấy là Đề Ngạn Thành. Đề Ngạn có nghĩa là “Nắm (vững) bờ sông”. Sông ở đây, chỉ là sông con, trỏ tả ngạn của con rạch Cầu ông Lãnh, đoạn nằm ở đại lộ Đồng Khánh ngày nay. Người Quảng Đông phát âm Đề Ngạn là Thầy Ngồi, và Thầy Ngồi bị Việt Hóa ra là Sài Gòn.
Đây là thuyết hữu lý nhất, so với ba thuyết trên, nhưng mà rồi lại sai, khi ta nghiền ngẫm sâu vấn đề. Những gì mà cụ Vương Hồng Sển nói ra đều đúng cả, chớ không phài là nói liều, bằng chứng là mãi cho đến ngày nay, người Tàu vẫn tiếp tục gọi Chợ Lớn là Thầy Ngồl, viết ra chữ là Đề Ngạn.
Nhưng tại sao rồi thì địa danh Sài Gòn, đáng lý gì chỉ trỏ Chợ Lớn thôi, mà lại trỏ Sài Gòn chớ không trỏ Chợ Lớn bao giờ? Đồng hóa chăng vì hai thành phố đó chỉ là một? Không, không có vấn đề đồng hóa. Dưới đây là những gì mà kẻ viết bài nầy đã thấy vào năm 1928. Xin nhắc lại vài chi tiết về đời sống cá nhân riêng tư của người viết bài.
Cha mẹ tôi làm nghề buôn gỗ. Thể nên từ năm lên bảy (1920) tôi đã được dịp theo cha mẹ để đi chơi Sài Gòn. Nhưng chưa biết rõ Sài Gòn đâu. Mãi cho đển năm 1928 tôi mới rời làng, sống hẳn ở Sài Gòn để theo học Trung học (Làng của tôi là làng huyện lỵ nhưng dưới thời Pháp thuộc, trong làng chưa có trường trung học như dưới thời ông Ngô Đình Diệm).
Vào năm 1928 thì tôi đã lớn xác và biết thật rõ về Sài Gòn. Sài Gòn và Chợ Lớn là hai thành phố khác nhau, cách biệt nhau bằng một vùng đất gần như là hoang vu, bề rộng của vùng đất hoang ấy ước đến sáu miles (dặm) chớ Không phải ít. Sài Gòn chỉ tiến đến cái nơi mà nay là rạp hát Nguyễn Văn Hảo. Đại lộ Trần Hưng Đạo đã có rồi, tên cũ là đại lộ Galliéni. Có đường xe điện nối liền hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn. Từ rạp Nguyễn Văn Hảo (thuở ấy chưa xây cất) đi mãi cho tới chợ Hòa Bình (thuở ấy cũng chưa xây cất) là đồng không mông quạnh, thỉnh thoảng mới thấy một nhà gạch nằm giữa đồng. Trường Trương Vĩnh Ký mà tôi theo học, cũng cho nằm giữa đồng trống mênh mông.
Thế thì làm sao mà có sự đồng hóa hai thành phố làm một trước năm đó được, vì trước năm đó hằng trăm năm, Sài Gòn đã được gọi là Sài Gòn rồi, mà khoảng cách thì lại còn xa hơn là vào năm 1928 nữa.
Đành là không thể biết sự thật, và tạm chấp nhận thuyết Vương Hồng Sển vậy.
Sau khi sách của cụ Vương Hồng Sển ra mắt độc giả thì một quyển sách khác được xuất bản, đó là quyển “Lịch sử xứ Đàng Trong” mà tên của tác giả tôi đã quên mất, nhưng còn nhớ khá nhiều những chương sách đó. Tác giả của quyển sử này bác bỏ thuyết Vương Hồng Sển bằng luận cứ sau đây, mà tôi chỉ nhớ đại khái thôi, và đây là nhắc lại chớ không phải là trích sách: “Có người cho rằng địa danh Sài Gòn là do địa danh Đề Ngạn, đọc theo Tàu là Thầy Ngồi biến ra. Nhưng tôi chỉ tin theo tài liệu Cổ thôi là sử Trào Nguyễn, sử này viết tên của Sài Gòn là Sài Côn vậy Sài Gòn do Sài Côn mà ra.”
Thuyết này quá yếu về các điểm sau đây:
A) Nhưng còn Sài Côn thì do cái gì mà ra chớ? Sài Côn, chữ nho có nghĩa là Cây gậy bằng củi? Sao vua chúa ta lại đặt tên một thành phố kỳ khôi đến thế chớ ?
Sử trào Nguyễn viết dưới thời Tự Đức, trong khi đó thì danh xưng Sài Gòn đã cò rồi hằng trăm năm trước Tự Đức. Thế sao dùng Sài Côn thời Tự Đức để làm căn bản được? Còn Sài Gòn đã có rồi trước Tự Đức thì do cái gì mà ra? Ta nên nhớ rằng vua Tự Đức là một ông vua Việt Nam mê Tàu nhất nước. Ông vua ấykhông bao giờ cho quan của ông đặt tên một thành phố là “cây gậy bằng củi” đâu, trừ phi tên đó là tên phiên âm mà ông vua ấy đành phải chấp nhận.
SƯU TẦM




























Không có nhận xét nào:

CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU SÓC TRĂNG THAM QUAN, ỦNG HỘ HOANGDIEUTRUONGXUASAIGON.BLOGSPOT.COM. CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM NHIỀU SỨC KHỎE, THÀNH CÔNG TRONG CÔNG VIỆC.