Kết quả sau 12 năm nỗ lực của các nhà khoa học Indonesia
Liệu hương vị của chúng sẽ ra sao?
Sầu riêng không phải là loại quả xa lạ gì với quốc gia
thuộc khu vực Đông Nam Á như Việt Nam chúng ta, chúng còn được mệnh danh là
"vua của các loại trái cây" đối với những người sống ở khu vực Đông
Nam Á.
Dù bạn có ăn được loại quả có mùi rất mạnh này hay không
thì chắc hẳn việc quả sầu riêng có gai rất nhọn và cứng là điều hầu như ai cũng
biết. Thế nhưng ngay cả một tín đồ cuồng nhiệt của sầu riêng cũng chưa chắc đã
biết về loài sầu riêng không hề có gai dưới đây.
Đây là một loài sầu riêng do các nhà khoa học của Bộ Nông
nghiệp Indonesia lai tạo thành công sau 12 năm nỗ lực bền bỉ, thay vì có lớp
gai nhọn và cứng như thông thường thì loại sầu riêng này lại có vẻ ngoài giống
một trái... dưa hơn với bề mặt da trơn láng!
Hơn nữa phần vỏ của loài sầu riêng này mỏng hơn một chút
so với các loài sầu riêng thông thường và chúng lại có vị ngọt hơn. Từ đó cho
phép người ăn có thể dễ dàng tách vỏ ra mà không bị gai đâm như các loài sầu
riêng khác.
Dự án tạo ra sầu riêng không gai đã bắt đầu từ năm 2007 tại
ngôi làng Trenggaluh gần núi Rinjani của Indonesia, tuy nhiên phải mất tới hơn
một thập kỷ thì nhóm nghiên cứu mới thành công khi cho ra đời loại quả kỳ lạ
này.
Sầu riêng không gai (Ảnh: Indonesia)
Loại quả này có vị tương tự như các loài sầu riêng thông
thường và thậm chí còn ngọt hơn, mang tiềm năng cạnh tranh cao nhưng khó khăn lớn
nhất chính là việc nhân giống chúng ra đại trà.
Theo người đứng đầu nhóm nghiên cứu là ông Maisin thì họ
đã phải chọn ra 23.000 hạt giống và chỉ có 2% số hạt giống nảy mầm và phát triển
tốt, họ gọi loại cây này là sầu riêng Gundul.
Những khu rừng cổ nhất còn tồn tại tới ngày nay đã hàng chục triệu, thậm chí hàng trăm triệu năm tuổi, là tuyệt tác của tạo hóa trên Trái Đất.
Rừng Amazon có vai trò quan trọng với chức năng khí hậu toàn cầu, nhưng trong vòng vài thập kỷ qua, nhiều khu vực đã bị phá hủy do nạn phá rừng. Ảnh: BBC.
5. Rừng hỗn hợp Caspian Hyrcanian (Iran và một phần Azerbaijan): Vùng sinh thái Rừng hỗn hợp Caspian Hyrcanian ít được biết đến, nhưng là một trong những khu rừng cổ xưa đẹp nhất thế giới, hình thành từ cách đây 25-50 triệu năm. Ảnh: Apochi.
6. Rừng Tarkine, Australia
Nằm trên đảo Tasmania biệt lập, rừng Tarkine đã bén rễ trên trái đất từ cách đây 300 triệu năm. Đây là dải rừng ôn đới lớn thứ hai trên thế giới và là nơi có những cây thông Huon 3.000 tuổi. Ngoài ra, rừng còn có nhiều khung cảnh tuyệt đẹp, những thân cây rậm rạp bao phủ các ngọn đồi, thác nước và khe núi hùng vĩ. Du khách có thể đăng ký các chuyến đi tới những khu vực đẹp nhất của rừng.
7. Rừng Aracuaria, Chile
Thông Aracuraria của Chile có thể sống tới 1.000 năm. Chúng đã tiến hóa và duy trì hình dạng như một cây chổi ngược để chống lại các loài khủng long ăn lá từ 180 triệu năm trước, khi khu rừng mới hình thành. Bạn có thể ghé thăm công viên quốc gia Conguillio và Tolhuacaca, nơi có những khoảng rừng thông tuyệt đẹp giữa núi non hùng vĩ.
8. Rừng Yakushima, Nhật Bản
Khu rừng này tồn tại hơn 7000 này đẹp tới mức một phần đã được hoàng gia Nhật cải tạo thành vườn vào thế kỷ 17. Những thân cây mang dáng vẻ cổ xưa, cành đan cài trên những tảng đá phủ rêu tạo cho du khách cảm giác như lạc vào một câu chuyện cổ tích.
9. Rừng thông cổ Bristlecone, California, Mỹ
Những cây thông Bristlecone nhìn như cảnh trong phim "Chúa nhẫn" hơn là đời thực. Trong số đó, cây thông có tên Methuselah đã hơn 4.800 năm tuổi. Vị trí của cây được giữ bí mật để đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, du khách có thể chiêm ngưỡng họ hàng của Methuselah ở rừng quốc gia Inyo.
10. Rừng Baobab, Madagascar và Nam Phi
Xuất hiện ở đây từ thời con người chưa thành hình, những cây baobab là biểu tượng của châu Phi. Không ai biết chắc chắn chúng đã bao nhiêu tuổi (vì thân không có vòng gỗ). Theo phương pháp carbon, những cây này dao động từ 1.000-6.000 năm tuổi. Để bảo vệ chúng, chính phủ các nước đã lập ra các khu bảo tồn nhằm thu lợi từ du lịch sinh thái hơn là chặt bỏ cây.
Có một thời trước 1975 ở Saigon.
1 - Gỏi Đu Đủ:
Tôi bị gỏi
đu đủ bò khô nắm cẳng, cho tới bây giờ. Đĩa đu đủ bò khô đầu tiên tôi ăn là ở cổng
trường Dũng Lạc, bên hông Nhà Thờ Lớn Hà Nội, khoảng đầu thập niên 1950.
Ngày đó
trước cửa trường có nhiều hàng quà vặt, điểm đặc biệt là hầu hết người bán là
đàn ông.
Ừ thì là
trường con trai nhưng sao người bán lại cùng dòng giống, chuyện cho tới nay tôi
vẫn cứ thắc mắc.
Ông nào
cũng có tên không phải do cha mẹ các ông ấy đặt.
Bánh mì
giò chả có ông Lý Toét, ông Đại Quấy bán cái chi chi tôi quên béng mất.
Nhưng ông
được tôi mến mộ nhất, ngày nào cũng dúi cho ông ấy ít tiền là ông bán món đu đủ
bò khô thì lại không có tên.
Tay ông cầm
cái kéo cắt thịt bò dập tanh tách không ngừng, như một cách rao hàng.
Khi có
khách, hai tay đó cầm hai chai, một nước tương đen đen, một dấm trắng có pha
chút ớt hồng hồng xịt lia lịa xuống chiếc đĩa nhôm đu đủ bò khô có vương chút
rau thơm rau răm xanh xanh trên mặt. Chỉ nhìn hai cánh tay khua khua đã thấy nước
bọt túa ra đầy miệng.
Tôi đã chết
mệt với món đu đủ bò khô từ những ngày non dại đó.
Cho tới
ngày nay tôi vẫn…non dại.
Vẫn mê món
đu đủ bò khô. Vào nhà hàng nào có bán là tôi ít khi bỏ qua.
“Bệnh” này
bắt nguồn từ những ngày Hà Nội nhưng nặng thêm từ khi di cư vào Sài Gòn, khi nếm
mùi gỏi đu đủ của ông già áo đen trước cửa tiệm nước mía Viễn Đông nơi góc đường
Lê Lợi và Pasteur.
Thời sinh
viên, đậu chiếc xe Goebel hai màu vàng và cam bên lề, anh chàng tuổi trẻ ngày
đó nhào vào hàng ông già áo đen, bưng chiếc đĩa nhôm ra ngồi trên yên xe đắm đuối
với cái vị mằn mặn, chua chua, cay cay, nồng nồng không thể có trong các món ăn
khác.
Đĩa gọi
đĩa, thường phải ít nhất hai đĩa mới dứt áo ra đi được. Có những ngày nặng túi,
hai đĩa còn chưa ra đâu vào đâu, hai đĩa tiếp nữa mới…đủ. Còn tiếc rẻ húp hết
nước trong đĩa. Báo hại bữa cơm chiều đó sao thờ ơ uể oải khiến bà già đưa mắt
dò hỏi.
Anh bạn trẻ
tuổi Phạm Công Luận, quen trên giấy bút nhưng chưa bao giờ giáp mặt, nhắc nhớ tới
ông già áo đen của thời đó.
“Những anh
chị tôi, lứa tuổi nay đã bước vào tuổi 60, 70 rất quen thuộc với hàng bò khô,
nay gọi là gỏi khô bò của ông già áo đen bán trên đường Pasteur.
Họ vẫn nhớ
những buổi chiều chưa tắt nắng của Sài Gòn nửa thế kỷ trước, tan trường Sư Phạm,
trường Luật là phóng xe ra ngay góc ngã tư Lê Lợi – Pasteur, ngồi trên xe gọi mấy
đĩa khô bò đu đủ cùng một lúc.
Từ xa đã
thấy bóng ông chủ xe khô bò, luôn luôn bận áo đen nên chết tên.
Phải canh
làm sao để ăn được gỏi khô bò của “ông già chemise noire” hay “ông già áo đen”
này dù khu đó có tới bốn người bán gỏi khô bò đu đủ bào. Không mấy ai biết tên
gì, chỉ gọi biệt danh như vậy”.
Món khô bò
đu đủ bào ngon như thế nào phải nghe ông tổ sư ẩm thực Vũ Bằng tán :
“Có ai một
chiều nào nhàn tản trên con đường Pasteur, ở ngã ba Lê Lợi, có thấy hàng toán
người tề tựu ở trước chùa Chà như dự một cuộc mết tinh vĩ đại? Không, họ không
phản đối gì hết mà cũng chẳng yêu cầu gì hết. Khẩu hiệu của họ căng lên ở trong
lòng: họ ăn, họ uống, và uống và ăn để làm thỏa mãn cái dạ dầy nhiều đòi hỏi.
Có người đứng ăn; có người ngồi ghế ăn; có người ngồi ở xe máy dầu gác chân lên
hè để ăn; có người ngồi xổm trên hè để ăn; lại có người hãm xe hơi lại, thò đầu
ra ngoài kêu ăn. Họ ăn gì vậy? Ăn bánh tôm; ăn bì bún; ăn bánh mì phá lấu; ăn ốc;
ăn bánh canh giò heo; nhưng muốn gì thì gì, món được người ta thưởng thức nhiều
nhất, nồng nhiệt nhất và thành tín nhất vẫn là món đu đủ bào, rưới rất nhiều giấm
ớt lên trên. Ở cái đất quanh năm nắng chói như đây, tạng người ta nhiệt lắm, lòng
lúc nào cũng cứ xót như cào: ăn cái món ấy vào mát ruột. Các ông ưa quá, mà các
bà các cô lại ưa hơn; ăn một đĩa rồi lại muốn ăn đĩa thứ hai, thứ ba…thứ sáu.
Chính tôi đã thấy có một bà ăn chơi sơ sơ một lúc sáu đĩa như thế rồi xuýt xuýt
xoa xoa, chảy cả nước mắt nước mũi mà có vẻ như vẫn còn thèm ăn nữa. Ờ, cái món
đu đủ bào trộn giấm ớt đó là gì vậy? Thưa, đó là khô bò. Đu đủ bào, trên đặt mấy
miếng khô bò, tưới giấm ớt rồi rắc mấy lá ngò lên trên đó, chỉ giản dị có thế
thôi, vậy mà ăn vào…phải biết! Ngon chết người đi được!”.
Cái món
ngon chết người đi được này là món ta hay món tầu, nhiều người cắc cớ đặt câu hỏi.
Tác giả
Lưu Khâm Hưng có vợ người Tàu thắc mắc. Ông cũng nghĩ đây không phải là món của
người Hoa nên hỏi vợ cho chắc ăn. Ai ngờ bà vợ trả lời tỉnh queo:
“Hồi đó đi
học ăn hoài, dường như món này của người Tàu. Mấy xe bán gỏi đu đủ khô bò ở Chợ
Lớn đều do mấy ông Tiều bán. Bởi vậy ăn gỏi khô bò đâu có chan nước mắm mà là
chan nước tương pha giấm ớt”.
Thiệt hôn?
Cái món làm say đắm nhiều người Việt này là một món ngoại lai sao?
Tác giả
Minh Lê trong bài “Gỏi Khô Bò” đã cất công tìm kiếm.
Theo ông,
thành phần chính của món ăn hớp hồn này là đu đủ và bò.
Đu đủ có gốc
ở châu Mỹ, được mang sang trồng tại châu Á từ đầu thế kỷ 19.
Trong từ
điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhode, xuất bản năm 1651, chưa có từ đu đủ.
Nhưng trong cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản năm 1895, từ
“đu đủ” đã có ở trang 327, chứng tỏ khi đó đu đủ đã khá phổ biến ở Việt Nam.
Về thịt
bò, dân Việt chuộng nuôi trâu hơn nuôi bò. Nhưng tới năm 1915, cụ Phan Kế Bính
đã liệt kê trong cuốn “Việt Nam Phong Tục”:
“Về thứ đồ
ăn thì nhất là hay dùng những thịt trâu, bò, dê, lợn, gà ,vịt, chim, ếch, tôm,
cá, cua, ốc..v..v..mà thịt lợn là thứ cần dùng hơn hết”.
Tác giả
Minh Lê viết:
“Vậy vào
thời điểm cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, điều kiện “cần và đủ” cho gỏi khô
bò đã có, chuyện còn lại là khoảng năm nào và có ở đâu trước?
Nói về miền
Bắc, tôi “chộp” được câu này:
“Hà Nội
1953 đã thay đổi khác đi nhiều rồi…bây giờ phố xá Hà Nội có những món ngon mới,
như món thịt bò khô gồm đu đủ thái nhỏ, mùi và giấm, “lạp chín chương”, ăn vào
thấy đủ vị cay chua mặn chát.
Tác giả
Nguyễn Duy Hảo, bút hiệu Ba Lăng, ăn gỏi khô bò từ 1948:
“Thú thật
là tôi không được biết rõ món đu đủ bò khô có từ bao giờ và nguồn gốc của nó
cũng như do ai sáng chế ra món ăn đáng nhớ này. Riêng cá nhân tôi đã được thưởng
thức món quà đặc biệt này từ năm 1948 tại cổng trường tiểu học Hàng Than Hà-Nội”.
Khô bò có
cách chế biến giống với món phá lấu chiên của người Tiều nhưng người Tiều ăn
phá lấu với cơm chứ không làm gỏi đu đủ. Ngoài khô bò, xì dầu là dấu ấn của người
Hoa. Nhưng đu đủ bào và đậu phọng lại tương tự như món tam maak hung của người
Lào và món som tam của người Thái. Không biết có nên kết luận là một người Việt
nào đó đã kết hợp hài hòa các món trên để chế ra món gỏi đu đủ khô bò thần sầu
mà tôi là một đệ tử không.
Tôi đã một
phen thất vọng với món som tam của Thái Lan. Trong một lần tới Bangkok vào cuối
năm 2019, trước khi có dịch covid, tôi đã háo hức thử món gỏi đu đủ phổ biến của
Thái Lan. Tới Thái Lan mà không thưởng thức som tam, một di sản văn hóa ẩm thực
của đất nước hiền hòa này là một thiếu sót to lớn. Món này được bán khắp các
nhà hàng và xe bán rong tại Bangkok. Tôi order và thích thú chờ đợi. Cô hàng
khá xinh bắt đầu chế biến. Nhìn mà chóng mặt với cái tay thoăn thoắt vứt nguyên
liệu vào một chiếc cối. Đu đủ xanh, đậu đũa, xoài xanh, cóc Thái, cà chua,
chanh, nước mắm, đậu phọng, tỏi, tôm khô, đường thốt nốt và ớt. Hình như có cả
ba khía nữa. Đĩa gỏi được tôi khới khới cố ăn vài miếng rồi chịu thua.
Cay xé lưỡi,
cũng chua chua, chát chát, mặn mặn, ngọt ngọt nhưng đó là một thứ hầm bà lằng
giã nát trong cối. Nhìn đĩa gỏi dở dang mà không dám nói năng chi. Lỗi tại tôi
không biết tiếng Thái. Nếu biết som có nghĩa là chua và tum có nghĩa là giã thì
tôi đã không tốn vài chục baht!
Som tum là
một hóa thân tồi của gỏi đu đủ khô bò của ta. Cái miệng đã nếm qua gỏi khô bò sẽ
không bao giờ rời được cái vị chua chua, cay, ngọt, mằn mặn bùi bùi của món ăn
đường phố hấp dẫn này.
Vét hết những
sợi đu đủ, nhai xong những miếng khô bò nho nhỏ, người sành điệu phải húp cho bằng
hết phần nước còn sót lại. Đây là một hậu vị, kết thúc hoàn chỉnh một thức ăn
làm mê mệt những cái miệng sành sỏi.
Tôi bao giờ
cũng dành miếng gan nướng sém cạnh bùi, béo, cho những miếng cuối cùng.
Chính miếng
gan này đã gọi đĩa thứ hai, rồi thứ ba, thứ n.
Hình như
đã lậm món ăn dân dã nhưng ngon chết người này thì chẳng bao giờ có thể rời xa
được.
Không lẽ lại
ví cái nghiện gỏi đu đủ khô bò này với mấy ông hít tô phe ôm ấp nàng tiên nâu
nhưng tôi e rằng cả hai đều chung một quyến rũ.
Phạm Công
Luận, người tương đối trẻ, sống thời nay nhưng miệt mài đi tìm những dấu vết
xưa của Sài Gòn đã có duyên gặp được anh Nguyễn văn Tuynh, con trai của ông già
áo đen.
Anh Tuynh,
người phụ cha bán đu đủ bò khô suốt 9 năm trước khi đi quân dịch, nhớ lại:
Sài Gòn thời
ấy không có nhiều hàng quán cầu kỳ như bây giờ. Không chỉ giới bình dân, giới
có học không câu nệ phải ăn hàng quán sang trọng mắc tiền.
Do đó các
xe bán hàng ăn trên lề đường rất đông khách, có đủ cả sinh viên, thầy cô giáo,
tiểu thương, công tư chức và quân nhân.
Anh Tuynh
tiết lộ cách làm khô bò của ông già áo đen:
“Nhà tôi làm khô bằng lá lách bò, thịt thì bằng thịt ở má bò vì má bò có gân nên vừa mềm vừa dai, khi chín tới ăn rất thơm ngon. Lá lách bò dài như miếng gan heo, luộc chín, khứa từng khứa để khi xào nấu thì gia vị thấm vào bên trong mới ngon. Xong đem xào với sả, ngũ vị hương, muối, đường, gừng (để khử mùi nồng của lá lách bò) rồi đổ nước vào cho ngập mặt, đun hơn một giờ cho sệt lại. Sau đó vớt ra cho vào chảo chiên. Qua ba công đoạn luộc, xào rồi lại chiên nên mới có miếng sém cạnh, vừa bùi vừa giòn, ngon vô cùng”
2 - Nước mía Viễn Đông :
Khu nước
mía Viễn Đông thời của chúng tôi là một khu ăn hàng số một ở Sài Gòn. Ngày đó
chúng tôi tấp vào ăn, thấy có đủ các…bộ môn: gỏi khô bò, hủ tiếu, bò viên, bánh
cuốn, bò bía, phá lấu.
Người bán
tấp nập, người ăn cũng tấp nập. Thấy khu bán hàng quà vặt này đông vui, chẳng
ai trong chúng tôi thắc mắc. Nhưng nay anh Tuynh cho biết chính cha anh, ông
già áo đen bán gỏi bò khô là người đứng ra tổ chức khu ăn uống nhộn nhịp được đặt
tên không chính thức là “bến nước mía Viễn Đông”.
Bến nằm
trên đường Pasteur, khúc từ đường Tôn Thất Đạm đến Lê Lợi. Cha anh Tuynh đã từng
dừng xe bán ở trường Chu văn An, góc đường Lê Thánh Tôn và Tạ Thu Thâu quanh chợ
Bến Thành và đều bị đuổi chạy trối chết.
Khi ông tới
bán ở góc đường Pasteur và Lê Lợi, xế cửa hàng nước mía Viễn Đông, cảnh sát ở
bót Lê văn Ken cũng đuổi.
Sau khi
bàn bạc với các bạn hàng cùng bán tại địa điểm này, ông đến bót Lê văn Ken xin
thành lập một “bến” tập trung buôn bán, đóng thuế đàng hoàng.
Ông sẽ là
người thu thuế nộp lại cho cảnh sát. Vậy là khu ăn hàng của Sài Gòn thành hình.
Có bốn người
bán gỏi bò khô, tất cả đều là dân di cư. Ngoài ông già áo đen, còn có các ông
Thung, ông Chiếu và ông Dần. Tôi luôn luôn là khách trung thành của ông già áo
đen, chưa bao giờ biết các ông khác. Ông bác sĩ Lê văn Lân ngày đó có một bài
thơ về “bến” Viễn Đông mang tên “Quà Rong” được nhiều người biết.
Người đi
trăm nhớ ngàn mong
Người về
còn nhớ quà rong năm nào
Đầu đường
nghe thoáng lời rao
Là tha hồ
biết quà nào rẻ ngon
Dăm bông,
thịt nguội, mì giòn
Hai đồng một
ổ bà con mua giùm
Anh ơi, nước
mía Viễn Đông
Hai ly
chưa đã, mát lòng em luôn
Thêm đĩa
bò bía chấm tương
Ăn kèm phá
lấu, em thương anh nhiều
Ốc sò, muối
ớt, chanh tiêu
La ve, củ
kiệu càng nghèo càng ham
Cóc chua,
tầm ruột, ổi dầm
Thua gì
xoài tượng, mới dầm đã chua.
Bài thơ đã
ghi lại một thời Sài Gòn nhộn nhịp ăn uống xôn xao. Có điều tại Bến Viễn Đông
có tới bốn ông bán gỏi bò khô mà ông bác sĩ không nhắc tới món này. Thiệt là một
người đãng trí!
Tôi phải
nói thêm là, những ngày hoa mộng đó, chúng tôi thường không bỏ về sau khi vét hết
vài đĩa gỏi bò khô mà còn một chuyện luôn luôn chẳng bao giờ đãng trí. Đó là phải
xếp hàng uống bằng được một ly nước mía Viễn Đông. Ly nước mía mát lạnh, vắt
thêm trái tắc, uống vào tới đâu biết tới đó. Đó là một kết thúc hoàn hảo cho một
buổi rong chơi với quà rong.
Tôi muốn kết
thúc bằng một tiết lộ nho nhỏ.
Bà chủ nước
mía Viễn Đông hiện sống ở thành phố Montréal chúng tôi.
Tôi có gặp
bà một lần, chưa tiện hỏi về cửa hàng nước mía huyền thoại ngày đó thì mất liên
lạc với bà.
Thiệt đáng
tiếc! Tiếc như gan ruột cồn cào khi nhớ lại những ngày hoa mộng đẹp đẽ đó.
Song Thao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét