Nhân kỷ niệm Sinh Nhật thứ 104 ( 21.11.1909 - 21.11.2023) và tưởng niệm 15 năm ngày mất (07-11-2008) của Thầy Cung Giũ Nguyên, kính mời đọc một truyện ngắn Thầy viết năm 1971 ( chưa dược xuát bản). Có thể nhiều vị chưa được đọc qua.(Website/ Link: https://phamtinanninh.com/?p=7791) Ngàn đời nhớ anh(Cung Giũ Nguyên)
Đôi dòng giới thiệu:
Tôi
có vinh dự được làm học trò (nhỏ) của Thầy Cung Giũ Nguyên năm lớp Đệ Nhất C
trường Trung học Võ Tánh Nha Trang. Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh của Thầy trong những
giờ Littérature Française. Thầy ngồi trên bàn, lim dim đôi mắt nhìn ra ngoài cửa
sổ vào những ngày cuối thu có lá me bay, thao thao bất tuyệt về những bài thơ của
Victor Hugo, Alphonce de Lamartine, Paul Verlaine, Jacques Prévert… hoặc các
tác phẩm của Hector Malot, Anatole France. Thầy không chỉ là Thầy của thế hệ
chúng tôi mà còn là Thầy của những bậc sư huynh, kể cả nhiều vị Thầy trẻ khác,
những anh chị học sinh đã bước chân vào trường Trung học Võ Tánh năm từ năm
1947, lúc đó còn mang tên Collège de Nha Trang. Thầy cũng có trái tim rất đa
tình, từng có mối tình rất lãng mạn với một cô học trò tài hoa, sau này trở
thành nhà văn với tác phẩm Vòng Tay Học Trò vang tiếng một thời.
Ngoài
Pháp Văn và Việt Văn, Thầy còn dạy Hán Văn, La Tinh, Anh văn , Sử địa, Kinh tế
học, Triết học,… Đặc biệt, Thầy còn là huynh trưởng thuộc hạng “soái ca” của Hướng
Đạo VN.
Huynh trưởng Hướng Đạo Cung Giũ Nguyên
Và
trên hết, Thầy Cung Giũ Nguyên là một học giả tài hoa. Ông viết nhiều tiểu thuyết
bằng tiếng Pháp, nổi bật là hai tác phẩm Le Fils de la Baleine (Kẻ thừa tự của
ông Nam Hải) (1956) và Le Domaine maudit (Miền đất dữ) (1961) đều được nhà xuất
bản Arthème Fayard phát hành tại Pháp. Riêng Le Fils de la
Baleine đã được dịch sang tiếng Đức và xuất bản năm 1957 tại Genève và
Frankfurt dưới nhan đề Der Sohn des Walfischs. Trong chỉ một năm 1958, tiểu
thuyết này đã được tái bản đến lần thứ mười tại Pháp. Đã có luận án tiến sĩ viết
về văn chương Pháp của ông.
Tác
phẩm quan trọng cuối đời của Thầy của Cung Giũ Nguyên là Le Boujoum, tiểu
thuyết. Được khởi sự viết một năm sau biến cố 1975 và hoàn tất vào năm 1980 tại
Nha Trang. Cũng trong năm này, một chương trong tác phẩm, Khúc Hát của
Amdo (Le Chant d’Amdo), đã được đăng tải trên một tạp chí văn học ở Pháp,
với lời giới thiệu và ngợi khen đầy nhiệt tình của giáo sư Camille Souyris, chủ
biên của tạp chí. (“Fer de Lance”, Rythmes et Couleurs, Cannes, France,
Décembre 1980). Tác phẩm này được dịch sang tiếng Việt với tưa “Thái Huyền”.
Đây là một tác phẩm với thi pháp mà “kungfu” đã đến đỉnh mà chính người
Pháp cũng thừa nhận: “một tác phẩm khó nuốt nhưng chiều sâu ngôn ngữ của nó thì
vô tận”. Vì vậy đáng tiếc (và đáng buồn) với một người học trò “nhỏ bé” như
tôi, đã đọc lại mấy lần mà vẫn không hiểu được hết ý nghĩa của truyện, chỉ mơ hồ
nhận ra đôi điều mà Thầy muốn gởi gấm!
Hôm
nay, nhân kỷ niệm sinh nhật thứ 104 của Thầy ( 21-11-1909 – 21-11-2023) và cũng
để tưởng nhớ 15 năm ngày mất của Thầy (07-11-2008), xin phép được giới thiệu một
sáng tác của Thầy viết năm 1971 (chưa được xuất bản}- Truyện ngắn “ Ngàn đời
nhớ anh”.
(Học
trò Phạm Tìn An Ninh)
Ngàn đời nhớ anh
Cung
Giũ Nguyên
Ngày thứ bảy ấy, mẹ tôi đưa tôi ra xe hỏa để trở về Ngoạn Mục. Mặc dầu có lời
khuyên bảo của bác sĩ chuyên môn, tôi biết tôi đã vĩnh viễn đi vào cuộc đời mới,
đời của kẻ mù lòa.
Thôi, hy vọng của tôi học cho hết mấy năm đại học để có chút danh phận hay để
làm nên một sự nghiệp, hy vọng của tôi cũng như của mẹ tôi đã tiêu tan mất, như
những màu sắc cuối cùng tôi thấy một buổi sáng nơi bờ biển Vũng Tàu, rực rỡ một
hồi rồi biến thành một màu xám đen, mãi mãi xám đen.
Ba tháng nằm ở bệnh viện không thay đổi được tình trạng. Tôi có thể hiểu
xuyên qua lời giải thích của nhà chuyên môn, nào nguyên nhân nào biến trạng,
nhưng tôi không thể chấp nhận hiện tại đau đớn và tuyệt vọng, vì hiện tại ấy là
của tôi. Bạn hữu thăm viếng tôi, an ủi tôi với những mẫu đời tươi đẹp và can đảm
của những người mù danh tiếng như cô Helen Keller hay chàng ca sĩ da đen Ray
Charles, nhưng tôi không phải là họ. Tôi chỉ là một đứa con gái hai mươi hai tuổi,
con duy nhất của một góa phụ sống về nghề rau quả ở một làng nhỏ ở Cao Nguyên,
không có biệt tài nào, không có phương tiện nào để vạch một con đường đời khác
những bạn đồng lứa, đồng thời, với tôi. Lớn lên phải đi học, học phải lên lớp,
đến lớp cuối phải thi và thi cho đậu, thi đậu lại tiếp tục học, học để rồi mù,
để trở thành gánh nặng cho những người chung quanh phải lo cho mình mọi sự.
Một Dì phước trong bệnh viện đã khuyên tôi hãy tìm Chúa, hãy cầu nguyện
Chúa cho lại ánh sáng, Nhưng từ xưa nay, tôi chẳng biết đến Thượng Đế nào, tôi
đã trả lời với Dì phước là tôi thấy hổ thẹn phải cầu xin một Đấng mà tôi đã
không có cơ hội phụng thờ. Chúa là của Dì, nếu Dì muốn, Dì cứ cầu xin cho tôi.
Người nữ tu đành đáp lại một cách nhẫn nhịn: “Chúa là Chúa chung cho tất cả, của
những ai đã tin cũng như của những người không biết hay chống lại Chúa nửa.
Nhưng tôi sẽ không quên cầu xin cho Chị, Chị đừng ngã lòng, hãy về tịnh dưỡng một
thời gian đi…”
Xe hỏa đến ga Cầu Bảo một buổi trưa nóng gay gắt. Tôi nhận ra những khoảng
trống mặt trời chiếu trên đầu tôi, cho đến khi mẹ tôi dìu tôi vào phòng đợi của
nhà ga… Chúng tôi phải sang xe, nhưng xe đi Ngoạn Mục nửa giờ nữa mới có. Chuyến
tàu của chúng tôi đi từ Saigon đã rời khỏi nhà ga, tiếp tục con đường ra Nha
Trang. Những tiếng ồn trong phòng đợi đã bớt đi, nhưng lại có tiếng xì xào của
những hành khách đi Dalat như chúng tôi. Tàu không có. Đường bị hỏng. Chuyến
tàu bị hủy bỏ. Tôi hỏi mẹ tôi. Có tiếng lễ phép của một người đàn ông xác nhận
không có tàu lên; đường móc sắt phía trên Krongpha hư. Có lẽ một hai ngày nữa mới
sửa xong. Tôi không còn nghe tiếng người lạ ấy nữa.
Mẹ tôi bàn với tôi xuống Phan Rang ở lại một hai bữa hay là thuê xe hơi về
Ngoạn Mục. Cả hai giải đáp không mấy thuận lợi. Với bệnh tật của tôi, tôi nghỉ
đến bao phiền phức gây thêm cho mẹ tôi. Đợi tàu nơi phòng khách này cho đến khi
nào không biết, cũng chẳng phải một lối thoát êm ả. Chúng tôi đang còn phân vân
thì có tiếng giày bước đến gần chúng tôi, và giọng nói êm ái, trẻ trung, lịch sự,
của người đàn ông khi hồi, cất lên một cách thiện cảm: “Tôi có xe đi lên, nếu
quý bà cần đi gấp, xin mời đi.”
– Cám ơn thầy, mẹ tôi nói, nhờ thầy cho mẹ con tôi quá giang, chúng tôi sẽ xin
trả tiền.
– Thưa không, xe nhà, chỉ có mình tôi lên, rộng chỗ, và không có vấn đề tiền
nong gì cả. Các bà ở đường phố nào trên Dalat?
– Chúng tôi không ở trên ấy, nhà chúng tôi ở Ngoạn Mục. Đây là con gái tôi, học
ở Saigon nhưng phải về dưỡng bệnh.
Người đàn ông có lẽ đã cúi xuống để xách cái va-ly cho mẹ tôi, và có lẽ thấy
tay tôi đang quơ quào tìm hành lý nhỏ để bên cạnh, đã biết kính đen của tôi che
đậy bệnh tật gì. Tay người đã đở cái xách và đặt vào tay tôi.
Xe chạy khỏi cầu Tân Mỹ, khí trời trở nên dễ chiụ. Tôi ngồi ghế sau với
hành lý. Mẹ tôi ngồi bên cạnh người lái xe. Thỉnh thoảng, mẹ tôi ngoảnh lại để
đưa cho tôi nước uống, những múi cam bóc sẵn của người lạ mời. Mẹ tôi đã trò
chuyện nhiều với chủ xe. Tôi thoáng hiểu người ấy chừng ba mươi tuổi, có một hiệu
sách Nam Đồng, gần chợ Dalat. Ông ta chỉ vì thích đọc sách mà trở thành người
bán sách, chưa có gia đình, không cha mẹ anh em, sống một mình, khi nào cao hứng
thì đóng cửa hiệu để đi du ngoạn hay vào rừng kiếm phong lan. Mẹ tôi nắm lấy cơ
hội, nói có một số hoa, không ai săn sóc, sẽ biếu ông.
Đến Ngoạn Mục, mẹ tôi chỉ đường cho ông Nam Đồng rẻ vào vườn nhỏ bé của
chúng tôi. Miễn cưỡng lắm, ông mới bằng lòng vào nhà, để chứng kiến cảnh vú già
tôi ôm choàng tôi khóc lóc thảm thiết. Hình như ông Nam đồng chịu uống một tách
nước trà nóng, nhận một đôi phong lan, đi quanh vườn rau để thấy công việc làm
ăn của mẹ tôi. Trở vào nhà, ông đã nói đôi lời trước khi mẹ tôi tiễn ông ra cổng.
Rồi tiếng máy nổ và xe chạy. Tôi trở lại đời yên tĩnh và âm u của tôi.
Mãi gần một năm sau, tôi mới có dịp nghe lại tiếng nói của ông Nam Đồng.
Ông đến cùng vài người đứng tuổi, bà con gì với ông ấy, không chỉ để thăm mẹ
con tôi, mà đến để bàn một chuyện chúng tôi không bao giờ nghỉ đến. Tôi vẫn mù
lòa, đã quen thuộc khung cảnh, tôi không thấy khó chịu gì lắm khi đi đứng, di
chuyển. Tôi làm được đôi việc để giải khuây hơn là giúp đỡ mẹ tôi hay vú già. Một
người cậu của tôi đã cho tôi một máy hát và rất nhiều đĩa hát; nghe âm nhạc cổ
kim là giải trí thường xuyên của tôi. Mấy bạn học của tôi đã cho tôi một con
chó xù, nó là bạn duy nhất luôn luôn bên cạnh tôi. Thế mà ông Nam Đồng lại có ý
xin cưới tôi làm vợ. Mẹ tôi cảm động, hỏi ý kiến tôi. Tôi từ chối, và mẹ tôi
cũng đồng ý với tôi như vậy. Ngoài những lý do riêng của mẹ, riêng của tôi, hai
mẹ con tuy không nói thẳng ra, không muốn để cho một người nào khác, chẳng tội
tình gì, phải đến chịu gánh nặng săn sóc một người bệnh tật suốt đời. Tôi còn
nhớ lời từ khước của mẹ tôi: “Xin cám ơn ông bà, cám ơn cậu, con tôi bệnh hoạn.
Tôi cầu Trời khẩn Phật cho cháu chóng lành để sống được một đời bình thường.
Bây giờ thì không thể nghĩ đến chuyện cưới gã được.” Lại những tiếng thì thầm
nơi cửa, và tiếng nhiều chiếc xe chạy từ từ. Đứng nơi cửa sổ, tôi đưa mặt ra
phía đường để tưởng tượng hình ảnh những chiếc xe lăn sau hàng cây mơ.
Trời Phật đã thương mẹ tôi nhiều hơn tôi. Mùa thu năm ấy, mẹ tôi từ trần
sau những cơn sốt liên miên. Ở nơi hẻo lánh, vì không gần thầy thuốc, vì mẹ tôi
quá tin nơi thuốc cổ truyền và số mạng, mẹ đã bỏ tôi lại bơ vơ với vú già và một
đôi vợ chồng giúp việc nơi vườn rau. Tôi đã hết nước mắt để khóc. Không ai có
thể thấy vực thẳm đau khổ của tôi xuyên qua cặp kính đen, với đôi mí mắt luôn
luôn nhắm kín. Cậu tôi và một số thân thuộc được tin đã đến lo việc chôn cất và
khuyên tôi về ở với họ chốn An Xuyên là quê hương của cha tôi. Tôi không muốn
đi đâu nữa. Dời đến nơi nào, vũ trụ tôi cũng chỉ là một vũ trụ nhỏ bé trong màn
đêm. Nơi nhà mẹ tôi, tôi đã quen thuộc những tín hiệu của âm thanh. của mùi
hương và thể vật; chúng đã trở thành một quyển sách phong phú tôi dùng được và
tìm ra được ít nhiều hứng thú. Tôi nhớ câu chuyện người mù của thi sĩ Lamartine
nhắc lại trong hồi ký: “Tôi thấy tiếng kêu của sơn ca buổi sáng, tôi thấy tiếng
hót của họa mi buổi chiều…” Tôi cũng có một kinh nghiệm tương tự, hình ảnh nơi
đây đã trang điểm cái nhìn bên trong của tôi rồi. Dời đi nơi khác lại cần một
thời gian để thích nghi những phản ứng mà tôi xét không còn can đảm và kiên nhẫn
đễ vượt lên những khó khăn nửa. Vú già sẽ tiếp tục bảo bọc tôi, và vợ chồng người
trông nom vườn cũng hứa tiếp tục đảm đương mọi sự như có mẹ tôi vậy. Đời sống vật
chất không thay đổi gì mấy, nhưng vắng mẹ tôi, tôi cảm thấy đến mấy lần mồ côi.
Khoảng mười ngày sau lễ an táng mẹ tôi, vù già cho biết có ông Nam Đồng đến.
Tôi chẳng hiểu những gì trong thâm tâm tôi đã khiến khi gặp lại ông Nam Đồng,
người tôi thường gọi là ông, tôi bỗng gọi anh. Cảm xúc của anh không kém. Lần đầu
tiên anh cầm tay tôi, vừa an ủi tôi, vừa hỏi về những ngày cuối của mẹ tôi, và
những dự định tương lai của tôi. Vú già vui mừng không kém tôi khi mời được anh
ấy ở lại dùng cơm trưa. Và anh đã nhận như thể là một cử chì từ tâm, muốn cho
tôi cảm thấy bớt hiu quạnh, dù cho chỉ là trong một khoảnh khắc. Nhưng rồi khoảnh
thời gian ấy có thể nối dài. Anh đã nhắc lại lời ước vọng năm trước, và lần nầy,
cũng chẳng hiểu vì sao, tôi lại bằng lòng. Gánh nặng bây giờ trở nên quá lớn
cho vai tôi, tôi cần người phụ lực. Nhưng tôi không muốn ràng buộc anh, hoặc
tôi khiếp sợ một cảnh đổ vỡ thê thảm có thể xảy ra sau nầy. Tôi chỉ bằng lòng
làm người bạn của anh mà thôi với một số điều kiện. Anh chấp nhận không phải để
lấy rồi, mà với sự hiểu biết chín chắn và thành thật.
Quyết định của tôi xảy ra đồng thời với cuộc chinh chiến. Khói lửa đã lan
rộng trên đất nước. Cho đến nơi Ngoạn Mục hiền lành, mùi bom đạn cũng không
tha. Bây giờ tôi mừng có anh tôi bên cạnh. Anh đã giẹp bỏ hiệu buôn; những sách
vở anh thích đọc, những vật kỷ niệm anh quyến luyến, anh đã chở trên cái xe
xưa, đem về nhà tôi. Anh đã tu sửa lại phòng của mẹ tôi bên cạnh phòng tôi, để ở
riêng biệt. Anh đã tôn trọng lời hứa, suốt bao nhiêu ngày tháng sống bên tôi,
anh chẳng có lời nói, cử chỉ nào vượt qua biên giới chúng tôi đã vạch định. Những
chiều lạnh, cùng ngồi cạnh lò sưỡi, anh xem sách, tôi đan áo, tôi nghỉ và mơ ước
anh sẽ đến đặt tay trên vai tôi để cho cảm giác gần nhau hơn nữa. Nhưng anh đối
xử với tôi như người em gái. Chỉ trong công việc nhà, trông nom vườn rau, trồng
thêm hoa quả, giao thiệp với bạn hàng, anh đóng vai trò gia trưởng có trách nhiệm.
Đối với vú già, đối với những người giúp việc hay các gia đình lân cận, anh là
chồng chính thức của tôi.
Một buổi sáng, cũng như thường ngày, anh dậy thật sớm. Tôi nhận ra những
tiếng động ở phòng bên cạnh, đến phòng bên ngoài. Anh sửa soạn bình tách, pha
cà phê, uống một chén, rồi để sẵn phần của tôi trên bàn trước khi rời khỏi nhà.
Hôm ấy anh phải đi xem những xe đến chở bắp cải. Nhà vắng tanh, vú già đi chợ.
Tôi làm biếng thu gọn mình trong mền ấm, nằm mãi trên giường, vừa nghe nhạc và
mơ mộng. Có tiếng chó sủa. Có người làm gì với chó đến nỗi chó không sủa nữa.
Những tiếng đi thình thịch vào nhà làm rung rinh thềm ván. Có lẽ anh có việc gì
về gấp. Tiếng bước đến gần. Cửa phòng tôi không gài được đẩy ra. “Có phải anh
không? Anh cần gì?” Chẳng có tiếng đáp. Tôi vùng dậy Có cánh tay đàn ông choàng
lấy thân tôi. “Anh làm gì thế? Đừng! Sao anh quên lời hứa? Em sợ lắm. Đừng,
anh!” “Có gì đâu mà sợ?” Tiếng nói kinh dị. Hơi thở lạ lùng. Một bàn tay
thô kệch và hung hãn như chân của thú dữ. Tôi biết không phải anh tôi rồi. Tôi
kêu thất thanh: “Ông là ai? Đồ vô loại! Vú già ơi! Cứu tôi, làng xóm ơi! Anh
Nam Đồng ơi.” Tôi tưởng tôi sắp chết. Tôi vẫy vùng để thoát vòng tay của tên võ
phu. Tôi dùng răng, dùng móng tay để cấu xé nhưng tên khốn nạn không buông tha.
Một cái miệng nặc cả mùi rượu, thuốc lá và răng thối, chà trên má tôi. Nó muốn
vật tôi lên giường, tôi nhào lăn xuống sàng, đồ đạc bên cạnh giường đổ tung.
Tôi nhớ đến cái đồng hồ reo, vờ lấy quăng vào con thú. Đồng hồ đập nát một cửa
kính. Tôi muốn lao ra cửa sổ. Tay nó níu chặt tôi lại. Tôi cố la lên cầu cứu.
Tôi sắp ngất xỉu.
Có tiếng chạy thình thịch bên ngoài. Cánh cửa bị đạp tung rất mạnh. Tay kẻ
dữ đã thả tôi. Có tiếng thét lên, lúc đầu tôi không nhận ra tiếng của anh tôi.
“Mày làm gì trong nhà nầy?” Tiếng thét đầu tiên vang dội, tiếp đến là tiếng ẩu
đả. Có những va chạm dữ dội của cây gỗ trên thân hình, trên bàn ghế. Tôi không
thể biết ai đang đánh ai, không biết ai chịu những đòn nặng. Tôi không có mắt để
giúp anh tôi. Tôi sợ anh tôi bị tên võ phu giết chết. Tôi lần đến cửa sổ kêu vú
già, kêu người giúp việc, kêu làng xóm. Hai người đã xô đẩy nhau ra khỏi phòng,
rồi ra khỏi nhà.
Những bước chạy thình thịch một chốc rồi tan dần. Có tiếng xe chạy. Một chốc
yên lặng kinh hoàng. Tôi đã không còn kêu la được và cũng không thở mạnh được.
Tôi lần ra khỏi phòng, không dám gọi, phập phồng trước điều không thể thấy và
không thể đoán. Tôi không còn sức để đứng tựa nơi vách tường, tôi đã ngã quỵ xuống.
Nhưng anh tôi, chứ không phải kẻ võ phu, đã trở về và từ xa đã lên tiếng
để yên lòng tôi. “Anh xin lỗi em. Từ nay anh không để em một mình nữa”. Anh ôm
tôi, đỡ tôi dậy. Tôi đưa tay rờ nơi má anh, một má ẩm ướt không biết vì mồ hôi
hay máu, nước mắt hay nước mưa. Anh cúi đầu xuống và, lần đầu tiên, sau mấy năm
quen biết và sống chung, tôi có cảm giác sung sướng lạ lùng khi môi tôi gặp được
môi anh.
Phòng của tôi hư nát cả. Anh biểu tôi, trong khi chờ sửa lại cho xong,
tôi qua ở tạm bên phòng anh. Nhưng trong ý tôi, không còn chữ tạm nữa. Chính
tôi phá trước lời giao hẹn bao nhiêu dè dặt và lo ngại của tôi không thể còn nữa.
Từ nay tôi sẽ mãi mãi với anh và của anh.
Phải chi chuyện đời tôi chấm dứt nơi đây. Phải chi thời gian dừng lại để
cho hạnh phúc của tôi có trong mấy tháng sau đó, được kéo dài vĩnh viễn. Không.
Hãy đem cho tôi tất cả những khăn tang trên đời để thấm cho hết nước mắt của
tôi. Anh tôi không phải là chiến sĩ nhưng chiến tranh cũng tìm đến anh tôi.
trong lúc anh lái xe lên Cầu Đất. Anh đã đi sớm để về sớm, không để tôi một
mình lâu, với vú già. Xe anh đã đạp phải mìn.
Không ai cho phép tôi động đến xác của anh. Tôi đoán chừng lý do là xác
anh không còn toàn vẹn, cũng như chiếc xe của anh. Thứ bảy năm nào đó, mới năm
nào đó, chiếc xe ấy, và anh ấy, đã đưa mẹ con tôi từ ga Cầu Bảo về. Có phải nước
mắt tôi, linh nghiệm hơn bao nhiêu thứ thuốc tôi đã phải uống. Hay có lẽ nào nhờ
những lời của Dì phước ở Bệnh viện Mắt hứa cầu xin cho tôi, với Thượng Đế của
Dì? Một buổi sáng mùa Xuân, trùng với mùa Phục Sinh, tôi ngạc nhiên thấy được
điểm sáng nhỏ, điểm sáng lớn lần. Tôi hét lên một tiếng vui làm cho vú già tôi
tưởng một thảm họa khác đã đến với tôi. Tôi thấy rồi. Tôi thấy rồi, vú ơi. Tôi
chưa thấy rõ ràng vú. Nhưng điểm ánh sáng đưa cho tôi hy vọng bệnh lòa của tôi
dần dần sẽ hết. Quả thật, mấy tuần sau nữa, tôi đã nhận ra những hình vật, khám
phá khung cảnh tôi sống, tôi nhìn thấy được hình dáng và màu sắc của những hoa
đào ngoài sân, nhìn thấy tất cả chi tiết phòng hạnh phúc ngắn ngủi của tôi nay
phải mãi mãi vắng bóng chồng.
Ánh sáng đã trở lại với tôi, để thay anh, cho tôi khỏi sống dưới sự đe dọa
thường xuyên của kẻ võ phu. Hôm ấy, tôi đã hỏi anh tôi có biết tên nào đã tấn
công tôi. Anh đã trả lời một cách thãn nhiên: “Em cần gì biết đến lai lịch của
một thứ đê tiện. Nó không phải một, nó là nhiều, nó cả một loài, cả từng giống,
căn cước của nó là võ lực, cưỡng bức, bạo tàn, sát nhân. Và hính bóng chúng cái
nào cũng giống cái nào, biết được một, là biết tất cả. Vì chúng cùng chung một
thái độ, một thứ hành vi thất đức. Chúng có từ khi tạo thiên lập địa và sẽ còn
mãi mãi trên quả đất nầy. Thứ cặn bã của nhân loại ấy xuất hiện khi nào xã hội
suy đồi, cũng như những vật và con thú bẩn trủi lên bờ biển khi nước sạch rút
đi xa.
Với cặp mắt tìm lại được, tôi sẽ biết nhận dạng để đề phòng, để tự vệ.
Nhưng anh? Tôi tiếc đến khi thấy đươc cảnh, vật và người chung quanh tôi, tôi
không còn có được mặt anh để chiêm ngắm, để nhìn cho tường tận, để đối chiếu với
hình ảnh tôi chỉ có bấy lâu nay trong trí tưởng tượng. Tôi tìm mãi trong nhà một
giấy tờ nào về anh để biết anh một cách đầy đủ hơn nữa. Tôi không biết tên thật
anh là gì, Nam Đồng chỉ là một hiệu bán sách. Tôi không có được một tấm hình của
anh để thờ phụng. Có lẽ anh không còn nghĩ đến việc chụp hình khi vợ mình đã mù
lòa. Anh chân tình và thâm tình đến thế. Anh kín đáo đến nỗi chỉ xuất hiện và sống
bên cạnh tôi khoảng thời gian tôi cần ánh sáng và sự che chở của anh mà thôi.
Anh chết đi nhưng vẫn còn nói với tôi biết bao nhiêu điều. Anh không để lại
hình ảnh nào, nhưng tôi đã thấy anh, thấy một phần khuôn mặt anh nơi bất cứ đâu
có lời nói dịu hiền, nơi bất cứ đâu có hành vi đượm tình thương vô vụ lợi ngọt
ngào. Anh. Anh người tôi yêu kính. Ngàn đời em sẽ nhớ anh.
Cung
Giũ Nguyên
(1971)
Đọc
thêm:
Những
bài viết về Thầy/ Nhà văn Cung Giũ Nguyên:
–Cung
Giũ Nguyên – Tac Giả Và Tác Phẩm (Trương Vũ):
https://phovanblog.blogspot.com/2017/08/cung-giu-nguyen-tac-gia-va-tac-pham.html
–Cung
Giũ Nguyên: nhà văn của Miền đất dữ (Phạm Văn Quang):
https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/cung-giu-nguyn-nh-van-cua-mien-dat-du/
https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/cung-giu-nguyn-nh-van-cua-mien-dat-du/
–Cung
Giũ Nguyên, một “cây bút” của dòng Văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp
(Phạm Văn Quang & Ngân Hà):
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét