Tất cả những tên gọi này đều bằng tiếng Nôm, nhưng do ít sử dụng nên rất nhiều người không hiểu nghĩa. Phải biết miền Nam xưa kia là một vùng đồng bằng hoang vu, đầy rừng rậm, hầm hố lầy lội, địa hình rất khó di chuyển. Vì thế người dân mới tạo ra các địa danh để gọi, cho đến nay trở thành tên, đôi khi rất khó hiểu. Do đó, chúng tôi xin sưu tầm, trích đăng lại từ những tư liệu miền Nam có sẵn.
1 – Tên do địa hình, địa thế:
Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre:
“Gió đưa gió đẩy,
về rẫy ăn còng,
về bưng ăn cá,
về giồng ăn dưa…”
Giồng là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: “trên đất giồng mình trồng khoai lang…”
Một con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xã. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đã trở thành tên của một quận (huyện).
Lại nhắc đến một câu hát khác:
“Ai dzìa Giồng Dứa qua truông
Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em…”
Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngã ba Trung Lương đến cầu Long Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn).
Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa thì phải qua truông, vậy truông là gì?
là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ.
“Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
Tại sao lại có câu ca dao này?
Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, còn gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa hình trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại.
Phá Tam Giang nhìn từ trên cao là lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước xoáy, sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh Thừa Thiên, phía bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là sông Hương đổ ra cửa Thuận An.
Lả nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ còn những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, vì đầm có nước quanh năm. Ở Sài Gòn, qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu Cò.
Là địa bàn không có sông, suối, nên hệ thống bàu là nơi dự trữ nước ngọt, cung cấp nước tưới chủ yếu cho hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân địa phương. Tại nhiều vùng quê, sau khi khai khẩn những vùng đất có địa hình trũng, thấp để canh tác, người xưa thường lấy chữ “bàu” để đặt tên cho xứ đồng.
Công viên văn hoá Đầm Sen
Chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng của một dòng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai bên nhưng giòng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà Mau có Đầm Dơi, Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài Gòn có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất lớn.
Là danh từ, “bưng” có nghĩa: “vùng đầm lầy, ngập nước, mọc nhiều cỏ lác”, có từ ghép tổng hợp “bưng biền” mang nghĩa khái quát: “vùng đất thấp có nhiều đưng, sậy, lác…”. Ngoài ra, từ này còn mang một nét nghĩa chuyển hóa khái quát chỉ: “sự quê mùa, chưa phát triển”.
Từ gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa thì ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng… mọc. Mùa mưa ở bưng thường có nhiều cá đồng.
“…về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa”.
Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc.
1. Vùng đất trũng, ngập nước vào mùa mưa nhưng cạn nước vào mùa khô.
2. Bãi lầy ở ven sông, khi thuỷ triều lên thì ngập nước.
(Theo Wiki)
Chữ bưng biền thướng đi đôi với nhau. Có lẽ chữ bưng chỉ vùng thuộc nước ngọt, còn biền chỉ vùng thuộc nước mặn.
Chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở Đức Hòa (giữa Long An và Sài Gòn) có Láng Le, được gọi như vậy vì ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài Gòn) xưa kia được gọi là Láng Thọ vì có những chỗ ngập do nước sông Sài Gòn tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp thuộc.
Chỗ trống trải vì không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia có nhiều cỏ bàng vì ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hòa có Trảng Bom, Trảng Táo.
Ở miền động Nam Bộ trảng nhiều vô kê. Có những cái trảng lớn đi hàng nửa ngày mới qua hết. Trái lại, có trảng chỉ rộng băng sần đá bóng và nho hơn nữa.
khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngã tư Bình Hòa, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài Gòn chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế vì trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, vì đã từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười.
Chỗ đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở Củ Chi có Hố Bò, vì bò nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hòa có Hố Nai, là nơi những người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành một khu vực sầm uất.
Dân địa phương gọi các kênh nhỏ là xẻo , vì thế có những cái tên nghe buồn cười như , như Xẻo Rô, Xẻo Bướm, Xẻo Bèo…
Nghĩa là vùng đất trồng trọt (miệt vườn) . Đây là từ chỉ vùng đất nằm ở gần kênh nước. Ở Rạch Giá có Miệt Thứ là vùng đất chạy dọc theo kênh Xẻo Rô , đánh số từ Thứ Hai đến thứ Mười Một. Ở Hậu Giang có Miệt Ngàn là vùng đất dọc theo kênh Xáng Xà No đánh số từ Một Ngàn đến Mười Bốn..
2 – TÊN BẮT NGUỒN TỪ TIẾNG KHMER
Miền Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người Khmer sống chung với nhau,văn hóa đã ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu hiện rõ nét qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua thì rất Việt Nam nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đã Việt hóa một cách tài tình.
Cần Thơ.
Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn Việt Nam và vội đi tìm hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt “cần” và “thơ”.
Cần Thơ không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa. Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hóa, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer “kìntho”, là một loại cá hãy còn khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá “lò tho”. Từ quan điểm vững chắc rằng “lò tho” là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hóa tiếng Khmer “kìntho”, người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer “kìntho”.
Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, “mỹ” và “tho”, không tạo nên một ý nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đã xác định địa phương này có lúc đã được gọi là “Srock Mỳ Xó” (xứ nàng trắng). Mình gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ Srock,chỉ còn giữ lại Mỳ Xó thôi.
Theo cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ tiếng Khmer “Srock Khléang”. Srock có nghĩa là xứ, cõi. Khléang là kho chứa vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua. Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng. Tên Sốc Trăng đã có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đã đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là giang; trăng là nguyệt). Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên,châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng.
Bãi Xàu là tên một quận thuộc tỉnh Sóc Trăng. Đây là một quận ven biển nên có một số người vội quyết đoán, cho rằng đây là một trường hợp sai chính tả, phải gọi là Bãi Sau mới đúng. Thật ra, tuy là một vùng bờ biển nhưng Bãi Xàu không có nghĩa là bãi nào cả. Nó xuất phát từ tiếng Khmer “bai xao” có nghĩa là cơm sống. Theo truyền thuyết của dân địa phương, có địa danh này là vì nơi đây ngày trước, một lực lượng quân Khmer chống lại nhà Nguyễn đã phải ăn cơm chưa chín để chạy khi bị truy đuổi.
Kế Sách cũng là một quận của Sóc Trăng. Kế Sách nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của sông Cửu Long), phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là K’sach, như vậy Kế Sách là sự Việt hóa tiếng Khmer “k’sach”.
Cái Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hóa của “k’ran”, tức cà ràn, là một loại bếp lò nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn.
Trà Vinh xuất phát từ “prha trapenh” có nghĩa là ao linh thiêng.
Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer “Prek Trakum”, là sông rau muống (trakum là rau muống).
Sa Đéc xuất phát từ “Phsar Dek”, phsar là chợ, dek là sắt.
Tha La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer “srala”, là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo.
Cà Mau là sự Việt hóa của tiếng Khmer “Tưck Khmau”, có nghĩa là nước đen.
3 – ĐỊA DANH DO CÔNG DỤNG CỦA MỘT ĐỊA ĐIỂM HAY DO MỘT KHU VỰC SINH SỐNG , LÀM ĂN.
Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn hướng dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi, người ta thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên, có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu.
Phổ biến nhất của các địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều nơi. Sài Gòn có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đã trở thành một địa danh quen thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài Gòn là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức. Địa danh về chợ còn được phân biệt như sau:
– Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ Tho, Chợ Búng (đáng lý là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài Gòn.
– Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo, chợ Bà Rịa.
– Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (vì gần một cây cầu sắt) ở Gò Vấp, chợ Cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn.
Là một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí.
Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đình…
Về các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ còn ở nông thôn mà không còn phổ biến ở thành thị.
Những địa danh còn sót lại về xóm ở khu vực Sài Gòn, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. Gò Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm lưới hay làm bủa để nuôi tằm).
Là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông, vì khá phổ biến thời trước nên “thủ” đã đi vào một số địa danh hiện nay hãy còn thông dụng, như: Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài Gòn), Thủ Thừa (Long An), Thủ Dầu Một (Bình Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa có lẽ là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đã giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đã được người dân gắn liền với nơi làm việc của họ. Còn Thủ Dầu Một thì ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi.
Ban đầu là chỗ có đủ điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ hoặc đậu lại do yêu cầu chuyên chở, lên xuống hàng. Sau này nghĩa rộng ra cho cả xe đò, xe hàng, xe lam…
Cũng như chợ, bến thường được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được cất lên nhiều nhất. Một số tên bến đặt theo cách này đã trở thành tên riêng của một số địa phương, như: Bến Cỏ, Bến Súc, Bến Củi ở Bình Dương. Bến Đá ở Thủ Đức, Bến Gỗ ở Biên Hòa.
Ngoài ra bến cũng còn có thể được đặt tên theo một đặc điểm nào ở đó, như một loại cây, cỏ nào mọc nhiều ở đó, và cũng trở thành tên của một địa phương, như:
Bến Tranh ở Mỹ Tho, Bến Lức ở Long An (đáng lý là lứt, là một loại cây nhỏ lá nhỏ, rễ dùng làm thuốc, đông y gọi là sài hồ).
Có một số địa danh được hình thành do vị trí liên hệ đến giao thông, như ngã năm, ngã bảy, cầu, rạch… thêm vào đặc điểm của vị trí đó, hoặc tên riêng của một nhân vật có tiếng ở tại vị trí đó. Ở Sài Gòn có rất nhiều địa danh được hình thành theo cách này: Ngã Tư Bảy Hiền, Ngã Năm Chuồng Chó, Ngã Ba Ông Tạ… Ở Trà Vinh có Cầu Ngang đã trở thành tên của một quận. Trường hợp hình thành của địa danh Nhà Bè khá đặc biệt, đó là vị trí ngã ba sông, nơi gặp nhau của 2 con sông Đồng Nai và Bến Nghé trước khi nhập lại thành sông Lòng Tảo. Lúc ròng, nước của hai con sông đổ ra rất mạnh thuyền bè không thể đi được, phải đậu lại đợi con nước lớn để nương theo sức nước mà về theo hai hướng Gia Định hoặc Đồng Nai.
“Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.”
Tương truyền có ông Thủ Huồng là một viên chức cai quản “thủ” ở vùng đó, tham nhũng nổi tiếng. Có lần nằm mơ thấy cảnh mình chết bị xuống âm phủ phải đền trả những tội lỗi khi còn sống. Sau đó ông từ chức và bắt đầu làm phúc bố thí rất nhiều; một trong những việc làm phúc của ông là làm một cái bè lớn ở giữa sông trên đó làm nhà, để sẵn những lu nước và củi lửa. Những ghe thuyền đợi nước lớn có thể cặp đó lên bè để nấu cơm và nghỉ ngơi. Địa danh Nhà Bè bắt nguồn từ đó.
Miền Nam là đất mới đối với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được hình thành trong vài thế kỷ trở lại đây nên những nhà nghiên cứu còn có thể truy nguyên ra nguồn gốc và ghi chép lại để lưu truyền. Cho đến nay thì rất nhiều địa danh chỉ còn lại cái tên mà ý nghĩa hoặc dấu vết nguyên thủy đã biến mất theo thời gian. Thí dụ, Chợ Quán ở đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn, bây giờ chỉ biết có khu Chợ Quán, nhà thờ Chợ Quán, nhà thương Chợ Quán… chứ còn cái chợ có cái quán đố ai mà tìm cho ra được. Hoặc Chợ Đũi (có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi vì người buôn bán hay bị nhân viên công lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ hàng dày dệt bằng tơ lớn sợi, bây giờ mặt hàng đó đã biến mất nhưng địa danh thì vẫn còn.
Ngoài ra, đất Sài Gòn xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau này thành phố được xây dựng một số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân vẫn còn dùng tên cây cầu cũ ở nơi đó để gọi khu đó, như khu Cầu Muối. Và cũng có một số địa danh do phát âm sai nên ý nghĩa ban đầu đã bị biến đổi nhưng người ta đã quen với cái tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ cái tên đã được đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban đầu, vì nơi đó có nhiều cây lứt; còn chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, sau này bán đủ mặt hàng và cái tên được viết khác đi).
Ps: Bài viết này được hình thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương mình.
TRAN DO
NGƯỜI SÀI GÒN XƯA GIÀU CŨNG KHÔNG PHÁCH LỐI…
Cũng như tôi, nhiều người bạn có một thắc mắc rất là thắc mắc: Rất nhiều bài viết về cảnh cũ nhưng người xưa Sài Gòn thì thấy hiếm có bài báo nào đề cập. Quả đúng thật.
Bởi vì cảnh trí có thể thay đổi nhưng những nhà khảo cổ, nghiên cứu có thể tìm lại, phục dựng lại được qua hình ảnh, hiện vật, tư liệu. Nhưng lối sống, tính cách con người thì có cách chi mà diễn tả lại được. Cũng phải tìm trong sách báo mà thôi.
Nhưng trong những bài viết của tác giả người Sài Gòn khi nói về tính cách của người Sài Gòn xưa có làm mấy ai tin được. Sự hoài nghi này cũng hết sức khoa học. Vả lại hình như cái gì quen quá cũng chẳng ai muốn viết. Báo chí muốn ăn khách thì phải lạ, có thông tin. Thời nay trong lúc tẩn mẩn, tò mò “tầm chương trích cú” tôi lại tìm được bài của nhà văn Nguyễn Ngu Í phỏng vấn cụ Á Nam Trần Tuấn Khải - một nhà văn, nhà giáo vốn dòng Nho học. Cụ Á Nam sinh năm 1895 tại Nam Định và vào Sài Gòn sinh sống từ năm 1955. Bài phỏng vấn này được trích trong quyển Sống và Viết của Nguyễn Ngu Í (trang 77, in năm 1966 tại Sài Gòn). Xin được trích nguyên đoạn cụ Á Nam có nhận xét về tính cách người Sài Gòn để bạn đọc tham khảo.
. Nguyễn Ngu Í hỏi: Dường như lúc thiếu thời, cụ đã từng vào Nam?
+ Cụ (Á Nam Trần Tuấn Khải) gật đầu: Tôi không nhớ rõ năm. Khoảng tôi trên 30 tuổi thì phải, tức là lối 28-29 gì đó.
. Hẳn cụ còn giữ ít kỷ niệm sau lần đầu tiên tiếp xúc với người và cảnh miền Nam?
+ Cảnh thì tôi quên mất. Còn người thì còn nhớ một kỷ niệm mà riêng tôi, tôi cho là rất thú. Một hôm nọ, tôi ghé thăm một người đồng hương, bán đồ cẩn xà cừ bên hông chợ Sài Gòn, đường Sabourain, bây giờ là đường Tạ Thu Thâu. Đang hàn huyên thì có một ông khách vào, hỏi giá một món đồ. Người Nam, mặc bà ba trắng, đi guốc vông. Dân thợ không ra dân thợ; dân thầy không ra dân thầy. Tôi tưởng ông ta là một khách qua đường, rỗi rãi, hỏi chơi để giết thời giờ, chớ cái bộ vó ông ta thế, tiền đâu mà mua nổi món đồ bạc ngàn.
Ông ta xin bớt hai trăm. Chủ hiệu bằng lòng bớt một trăm. Tôi tưởng ông ta sẽ bỏ đi, qua cửa hàng khác, nào ngờ ông ta ưng thuận, móc bóp ra, lấy chín trăm đồng trả. Hai ông biết chín trăm đồng hồi 40 năm về trước là cái gia tài nhỏ. Khi ông ta mở bóp, tôi nhìn thấy bạc giấy lớn còn nhiều. Người nhà hàng bao, cột món đồ xong, ông ta ra cửa, ngoắc một người tài xế Tây vội vã đến, ôm món đồ vừa mua để lên một chiếc xe nhà sang trọng. Ông ta vui vẻ bắt tay người chủ hiệu, lên xe. Thấy tôi ngạc nhiên ra mặt, ông bạn tôi cười: “Người trong này, họ như vậy đó, bác. Một nhà giàu có hạng ở đây mà đi phố, họ ăn mặc giản dị như thế đó. Lúc mới vào, tôi cũng thường đánh giá họ lầm như bác”. Tôi như được mở mắt ra và cảm thấy thương thương cái đất “Nam… Kỳ” này: Nơi đây, người ta sống hồn nhiên, ít bị lễ nghi, tập quán ràng buộc như ở Bắc, ở Trung”.
Và cụ tiếp sau một ngụm rượu:
+ À còn điều này nữa. Một chiều thứ Bảy, tôi được thấy cảnh thầy thông, thầy phán, anh em thợ máy, anh em phu xe ngồi quây quần trong các quán ăn ở trong chợ Bến Thành cùng nhau bàn chuyện phiếm, chuyện đời hay chuyện thời sự một cách tự nhiên, thẳng thắn. Bầu không khí cởi mở giữa những hạng người khác nhau ấy làm tôi càng thích lối sống trong Nam.
Vì thế mà nay về già (lúc này cụ Á Nam được 70 tuổi - tác giả chú thích) cụ được toại nguyện” - người bạn khoa học, cũng là người Bắc, vừa cười vừa nói. Rồi anh tiếp, sau mấy giây nghĩ ngợi: “Tôi cũng thích lối sống hồn nhiên của đồng bào trong này. Nhưng ta phải nhận rằng nay có khác xưa. Cũng đã có ít phần kiểu cách, trọng cái bề ngoài”. Anh đưa ly lên môi, giọng nửa đùa, nửa thật: “Kết quả của sự di cư gần triệu đồng bào miền Bắc chúng ta đấy”.
LÊ VĂN NGHĨA
---
Nguyễn Thị Kim Ngân
**NGÔI NHÀ LỤP XỤP BỖNG '' NỔI NHƯ CỒN ", ĐƯỢC HÉT GIÁ HƠN 35 TỶ NHỜ XÂY BẰNG THỨ GỖ QUÝ NÀY**
Tòa nhà làm bằng gỗ Phoebe zhennan quý hiếm, được gọi là gỗ 'sợi vàng'. Người ta cho rằng nó được xây dựng vào thời nhà Minh, từ năm 1368 đến 1644.
Nhìn bề ngoài, ngôi nhà này có thể trông giống như một ngôi nhà nông thôn bình thường, thậm chí là có vẻ hơi lụp xụp. Tuy nhiên, nó thực sự được làm bằng một trong những loại gỗ đắt nhất thế giới.
Ngôi nhà được xây dựng bằng gỗ Phoebe zhennan quý hiếm, từng được các hoàng đế Trung Quốc sử dụng và ước tính trị giá hơn 10 triệu Nhân dân tệ (hơn 35 tỷ VND). Nó được phát hiện gần đây ở tỉnh Hồ Bắc, miền trung Trung Quốc và được cho là xây dựng từ thời nhà Minh, từ năm 1368 đến 1644, tờ People's Daily Online đưa tin.
Ngôi nhà rộng gần 300 m2 này được sở hữu bởi một người dân địa phương bình thường. Các chuyên gia cho rằng việc thấy được toàn bộ ngôi nhà được làm bằng Phoebe zhennan là cực kỳ quý hiếm. Loại gỗ này vốn nổi tiếng với ánh vàng óng ả khi được đánh bóng và đánh vecni.
Tên của nó trong tiếng Trung tạm dịch là “gỗ lụa vàng”. Ít nhất 30 khúc gỗ có đường kính 50cm đã được sử dụng để xây dựng ngôi nhà có vẻ ngoài khiêm tốn này. Toàn bộ tòa nhà hiện đã được chuyển đến bảo tàng và nó đang được tiến hành trùng tu.
Các hoàng đế thời nhà Minh làm ngai vàng cũng như đồ nội thất trong phòng ngủ từ loại gỗ này. Vì nó có khả năng kháng sâu bệnh tự nhiên nên cũng được ưa chuộng để làm quan tài. Người ta nói rằng nó có giá trị đến mức ngay cả khi bạn có một lượng vàng lớn, bạn cũng khó có thể mua được nó.
Vào năm 2013, một thương gia buôn gỗ đã cố gắng mua 8 cây Phoebe zhennan bằng cách sử dụng 22 ngôi nhà làm khoản cọc cho vụ thương lượng của mình. Lời đề nghị của ông ấy đã bị từ chối. Phoebe zhennan được coi là một loại cây gỗ có nguy cơ tuyệt chủng.
Những bài hát học trò nổi tiếng, và sự khác nhau giữa tình yêu học trò xưa và nay.
Trong nhạc vàng Việt Nam, đề tài ca khúc viết về học trò và những rung động đầu đời là một chủ đề quen thuộc, có rất nhiều nhạc sĩ đã sáng tác những ca khúc đã trở thành bất tử. Tiêu biểu nhất là nhạc sĩ Thanh Sơn với Hạ Buồn, Lưu Bút Ngày Xanh, Nỗi Buồn Hoa Phượng, Ba Tháng Tạ Từ, nhạc sĩ Song Ngọc với Họp Mặt Lần Cuối, Kỷ Niệm Một Mùa Hè, nhạc sĩ Hoài Nam với Những Dòng Lưu Niệm, nhạc sĩ Minh Kỳ với Tiếng Hát Học Trò, nhạc sĩ Duy Khánh với Trường Cũ Tình Xưa, Mùa Chia Tay…
Với thể loại nhạc tình ca, cũng đã có rất nhiều bài viết về thuở còn dưới mái trường, như Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu, Ngày Xưa Hoàng Thị, Con Đường Tình Ta Đi…
Tình yêu học trò trong những bài hát này nói riêng, và của thời xưa nói chung, thường là thứ tình lâng lâng nhẹ nhàng ở tuổi hãy còn măng tre, dường như là chỉ yêu qua ánh mắt với những cái nhìn len lén, những bức thư tình thường là không dám gửi.
Họ cảm mến nhau, rồi đợi chờ, giữ một khoảng cách rụt rè và bối rối rất đáng yêu. Mối tình nhẹ nhàng như vậy cứ đi qua cùng tháng năm học trò, rồi sau này dù có đến được với nhau, hoặc thường là phải xa nhau do hoàn cảnh, do thời cuộc, thì tình cảm tinh khôi đó trở thành những hoài niệm đẹp, những ký ức khó phai.
Đã có rất nhiều “mùa chia tay” như vậy trong nhạc vàng. Khi chia tay tuổi học trò, hoặc khi vì lý do nào đó mà không còn được chung trường lớp nữa, thì những kỷ niệm đó khi nhớ về, dù gợi lòng buồn, nhưng luôn êm đềm đẹp đẽ, như nhạc sĩ Thanh Sơn đã nhắc tới trong Lưu Bút Ngày Xanh, Ba Tháng Tạ Từ, hay là Hạ Buồn, Nỗi Buồn Hoa Phượng.
Trong dòng nhạc tình ca, bài hát học trò hay nhất, nổi tiếng nhất và được yêu thích nhất có lẽ là Ngày Xưa Hoàng Thị được nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ bài thơ cùng tên của thi sĩ Phạm Thiên Thư, khởi nguồn từ những tình yêu nhẹ nhàng tinh khôi nhưng thật lặng lẽ, như thi sĩ đã thổ lộ:
“Cô ấy ôm cặp đi trước, tôi đi theo sau nhưng không dám lên tiếng. Trong bóng chiều tà, ánh nắng hắt qua hàng cây, cô ấy lặng lẽ bước, gây cho tôi những cảm xúc bâng khuâng khó tả. Cứ thế, tôi chỉ biết lặng lẽ đi theo sau cô ấy hàng ngày, giấu kín cảm xúc của mình không cho bất cứ ai biết”.
Rồi thời gian trôi qua, tình yêu tưởng là vu vơ, nhưng để lại dấu ấn không thể phai mờ, để rồi một lần tình cờ trở lại đường xưa, nhớ lại “Ngày xưa Hoàng Thị”, Phạm Thiên Thư đã viết những câu thơ quen thuộc đã đi vào trong âm nhạc:
“Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng…”
Click để nghe Thái Thanh hát Ngày Xưa Hoàng Thị trước 1975
Tình cảm của một cô nữ sinh học trò ngày xưa luôn được thể hiện một cách e ấp, ngượng ngùng, như nhạc sĩ Vũ Thành An đã mô tả trong Bài Không Tên Số 5:
“Quấn quít vân vê tà áo
Run run đôi môi mở chào
Tiếng nói thơ dại ngày đó
Bây giờ mộng đời bay cao”
Bài hát này được nhạc sĩ viết cho mối tình của ông với một nữ sinh, người sau đó trở thành vợ (bây giờ mộng đời bay cao). Trong những lần đến cổng trường để đưa đón, hình ảnh mà nhạc sĩ thường thấy là một nàng nữ sinh thẹn thùng vân vê tà áo, mở lời chào mà môi còn run run vụng về, thơ dại và ngây ngô một cách thật đáng yêu.
Những chuyện tình học trò vụng dại như vậy vẫn còn đến những năm thập niên 1980, khi nhà thơ Đỗ Trung Quân sáng tác Chút Tình Đầu cũng đã nhắc đến ngu ngơ một cách đáng yêu của anh học trò không biết cách thể hiện tình cảm:
“Mối tình đầu của tôi có gì?
Chỉ một cây đàn nhỏ
Rất vu vơ nhờ bài hát nói giùm
Ai cũng cũng hiểu, chỉ một người không hiểu
Nên có một gã khờ ngọng nghịu mãi thành câm.”
Trong một bài viết, tác giả Ngô Văn Tuấn đã đúc kết về tình yêu tuổi học trò xưa:
“Tình yêu học trò thời xưa là những bức thư được giấu dưới ngăn bàn, là những lần chở nhau trên chiếc xe đạp đầy hoa phượng cùng nhau đến trường. Tình yêu thời đó trong sáng lắm, chỉ nhìn nhau thôi đã cảm thấy hạnh phúc lắm rồi nếu mà có lỡ chạm tay nhau sẽ thổn thức cả tuần. Tình yêu thời đó luôn luôn được giữ bí mật, đụng nhau ở sân trường chỉ biết ”liếc trộm” nhau một cái rồi thẹn thùng cười thầm quay đi. Món quà ngày đó đơn giản lắm, những ngày kỷ niệm sinh nhật đều là những món quà đơn giản từ những quán lưu niệm, những món đồn handmade , nhưng tràn trề tình cảm chân tình chứa đựng trong đó. Tình yêu học trò ngày xưa ngây ngô thơ dại đến là thường thế đấy”
Ngày nay, những mối tình đáng yêu thuở học trò như vậy có thể là vẫn còn, nhưng chắc chắn là sẽ rất hiếm.
Vào cái thời của lối sống hiện đại đầy vội vã, tình yêu cũng vồn vã hơn. Ngày nay không hiếm để thấy hình ảnh nữ sinh thoa son đánh phấn, sơn móng tay hay tóc vàng tóc nâu đến lớp, những thứ mà chỉ vài mươi năm trước hầu như không bao giờ có. Những em học sinh ngày nay lớn nhanh về thể chất, nhưng tâm hồn vẫn vụng dại nhưng thiếu kỹ năng về cuộc sống nên dễ dàng đánh mất đi tuổi thần tiên.
Trong các buổi lễ tổng kết trường trung học, năm nào các báo cũng đăng những tấm hình học trò áo trắng công khai thể hiện những sự thân mật quá mức bình thường ngay trên sân trường đông đúc, mà nếu nhìn qua thì nhiều người sẽ cảm thấy có sự sống sượng khó coi. Vẫn biết là mỗi thời mỗi khác, nhưng những hình ảnh đó không hợp với nét văn hóa kín kẽ của người Việt.
Thời nào thì cũng có yêu sớm, yêu trước tuổi, nhưng hình như ngày nay người ta dễ dàng “vượt rào” sớm hơn, có thể vì yêu mà bất chấp, nên để lại nhiều hệ quả, không còn là sự hồn nhiên lãng mạn của tuổi học trò nữa, mà có khi là nỗi đau của cả một đời.
nhacxua.vn biên soạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét