Cái
chết bi kịch của bốn phụ nữ dẫn tới những thay đổi trong cách xử lý thông
tin của cảnh sát qua đường dây gọi khẩn cấp 911.
Năm
1964, cả nước Mỹ chấn động vì vụ án mạng của Kitty Genovese, nữ
quản lý quán bar 28 tuổi tại quận Queens, thành phố New York.
Khoảng
3h ngày 13/3/1964, Genovese bị Winston Moseley, 29 tuổi, tấn
công trước khu chung cư sau khi kết thúc ca làm việc. Moseley bám
theo Genovese từ chỗ đỗ xe và đâm hai phát vào lưng nạn nhân.
Tiếng
hét của Genovese làm hàng xóm sực tỉnh. Một người mở cửa sổ ra quát
khiến Moseley hoảng sợ bỏ chạy. Nhưng một lúc sau, Moseley quay
lại khi Genovese lết tới gần cửa vào khu chung cư. Hắn tiếp tục tấn
công và xâm hại cô ngay dưới chân cầu thang.
Cái
chết của Kitty Genovese gián tiếp thúc đẩy sự ra đời của đường dây khẩn
cấp 911. Ảnh: New York Daily News.
Tại
thời điểm Genovese bị sát hại, nước Mỹ chưa có đường dây báo tin khẩn
cấp 911. Để được giúp đỡ, người dân phải trực tiếp quay số đồn
cảnh sát gần nhất hoặc yêu cầu người trực tổng đài chuyển số.
Cái
chết của Genovese khiến người dân nhận ra sự cần thiết có hệ
thống báo tin khẩn cấp duy nhất. Ba năm sau, năm 1967,
Ủy
ban Chấp pháp và Tư pháp của tổng thống Lyndon Johnson ra
báo cáo tái khẳng định nhu cầu trên.
Sau
đó, Ủy ban thương mại liên bang Mỹ hợp tác với công ty truyền
thông AT&T để chọn số 911 làm số điện thoại cho đường
dây khẩn cấp. Tháng 2/1968, cuộc gọi 911 đầu tiên được thực
hiện tại bang Alabama.
Sự
ra đời của đường dây 911 là cuộc cách mạng trong cách người dân báo
tin khẩn cấp. Nhưng sau đó, nước Mỹ xảy ra một số bi kịch khác làm
bộc lộ khiếm khuyết trong hệ thống và dẫn đến những thay đổi mới.
Tháng
8/1989, Maria Navarro đang mừng tiệc sinh nhật 27 tuổi tại nhà
riêng ở hạt Los Angeles, bang California thì được anh rể gọi điện cho
biết chồng Maria đang qua đó để giết cô. Vợ chồng Maria khi ấy đang
trải qua cuộc ly hôn căng thẳng. Maria từng phải xin lệnh cấm tiếp
xúc với chồng.
Nhưng
khi Maria trình bày sự việc, điều phối viên 911 từ chối giúp vì
“không thể nào cử một đơn vị ngồi chờ anh ta xuất hiện được”.
Chỉ
vài phút sau, chồng Maria cầm súng lẻn vào trong nhà bắn chết vợ.
Vụ
tấn công còn làm ba người chết và hai người bị thương.
Chưa
đầy một năm sau, các con của Maria khởi kiện hạt Los Angeles vì
cho rằng mẹ không được bảo vệ đúng quy định pháp luật.
Tuy
nhiên, đơn kiện bị bác bỏ vì cuộc gọi của Maria không được cho là tình
huống khẩn cấp nguy hiểm tới tính mạng.
Theo
thẩm phán, các vụ bạo lực gia đình hiếm khi dẫn tới thương tích nghiêm
trọng nên không thể nhận được sự chú ý như các tình huống khẩn
cấp khác. Phán quyết trên được giữ nguyên trong nhiều năm cho
tới năm 1999, khi thẩm phán khác rà soát lại vụ án.
Vụ
án khiến nhà chức trách nhận ra cần thay đổi cách điều phối viên 911 xử
lý tin báo bạo lực gia đình. Các chương trình đào tạo điều phối viên bắt
đầu phân tích cuộc gọi của Maria để tìm ra những cơ hội có thể cứu
sống nạn nhân nhưng bị bỏ lỡ.
Chẳng
hạn, dù cho rằng chồng Maria không phải mối nguy cận kề, điều
phối viên vẫn có thể phát thông tin tới cảnh sát trong khu vực.
Như
vậy, cảnh sát có thể ngăn chặn kẻ cầm súng có đặc điểm trùng khớp.
Hệ
thống 911 một lần nữa thay đổi sau cái chết của Denise Lee tại thành
phố North Port, bang Florida vào năm 2008.
Tháng
1/2008, Lee đang cắt tóc cho con nhỏ ở sân sau nhà thì bị Michael
King dùng súng ép lên xe. Trên đường bị chở đi, Lee bí mật lấy
được điện thoại của King và gọi 911. Trong lúc cuộc gọi vẫn kết nối,
Lee
vờ hỏi chuyện King để khai thác thông tin cho điều phối viên 911 ở
đầu dây bên kia. Lee có thể báo địa điểm cư trú của mình trước khi bị
phát hiện.
Trong
lúc cảnh sát truy tìm kẻ bắt cóc, một nữ tài xế dừng đèn trông
thấy Lee la hét và đấm cửa kính xe của King. Cô lập tức gọi 911 để
cung cấp đặc điểm và vị trí chính xác của chiếc xe.
Cuộc
gọi của nữ tài xế có thể cứu sống Lee nhưng điều này không xảy ra. Thông
tin nhân chứng cung cấp không được nhập vào hệ thống máy tính và
không được chuyển cho những cảnh sát đang rà soát gần đó.
Cuối
cùng, Lee bị xâm hại rồi chôn dưới đầm lầy gần nhà King.
Sau
cái chết của vợ, Nathan, chồng Lee, phát hiện điều phối viên 911 tiếp
nhận cuộc gọi từ nữ tài xế không được đào tạo đầy đủ.
Không
chỉ vậy, một số bang ở Mỹ thậm chí không yêu cầu điều phối viên phải
qua đào tạo.
Tháng
6/2008, Nathan lập ra Quỹ Denise Amber Lee, tổ chức phi lợi nhuận chuyên
cung cấp chương trình đào tạo thống nhất và toàn diện dành cho
điều phối viên ở mọi bang. Từ đó, gia đình Lee nỗ lực kêu gọi chính
phủ ra luật quy định điều phối viên 911 cả nước phải trải qua khóa
đào tạo bắt buộc để lấy chứng chỉ.
5
năm sau, vụ án mạng của Kari Hunt xảy ra và làm bộc lộ một khiếm khuyết
khác trong hệ thống 911.
Sau
vài tuần ly thân, Kari Hunt đồng ý đưa ba con tới khách sạn ở thành
phố Marshall, bang Texas để chồng gặp con. Trong lúc lũ trẻ xem
tivi, Kari theo Brad vào phòng tắm nói chuyện riêng. Khi Kari nói muốn
ly hôn, Brad nổi giận đâm vợ.
Tiếng
gọi của mẹ khiến cô con gái lớn 9 tuổi quay số 911. Bé gái gọi liên
tục nhưng đường dây không kết nối. Khi con gái lớn chạy đi cầu
cứu, Brad ra khỏi phòng tắm và bế con gái ba tuổi bỏ trốn.
Bốn
tiếng sau, Brad bị bắt. Qua
điều tra, cảnh sát phát hiện cuộc gọi tới 911 không kết nối vì bé
gái không biết phải ấn số 9 trước tiên rồi mới có thể quay số ngoài
khách sạn.
Không
muốn điều tương tự lặp lại, Hank, bố Kari, bắt đầu kêu gọi chính
phủ tăng cường ngân sách cho hệ thống 911. Nỗ lực của Hank đã
thành công. Đầu năm 2020, tổng thống Trump ký ban hành Luật Kari.
Luật
Kari yêu cầu hệ thống điện thoại nội bộ tại trường học, khách sạn, và
cơ sở kinh doanh,… cho phép trực tiếp quay số máy 911 mà không cần
nhấn thêm nút bấm khác. Đạo luật còn yêu cầu hệ thống phải thông
báo cho nhân viên ở những địa điểm trên khi máy điện thoại trong
hệ thống thực hiện cuộc gọi khẩn cấp.
Quốc
Đạt (Theo Chameleon, Consol Tech, ABC News)
Tháng Tư về,
nhớ Nguyên Sa - TỪ LÃNG
Last
updated Apr 18, 2021
Tôi biết đến
thơ Nguyên Sa từ năm 16 tuổi, năm chính thức được gọi là “Nữ sinh.” Không phải
riêng tôi, mà hình như tất cả lứa con gái cùng tuổi thời ấy, biết đến những vần
thơ của Nguyên Sa từ khi chúng tôi bắt đầu đến trường với tà áo dài trắng, biết
thẹn thùng khi nghe câu hát:
“Nắng Sài
Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em
mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn
yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn
yêu màu áo ấy vô cùng…”
Mặc dù,
chiếc áo dài chúng tôi mặc thời ấy nào có phải là lụa Hà Đông.
Rồi, từ ca
khúc “Áo lụa Hà Đông” do nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của
nhà thơ Nguyên Sa vào năm 1957 – qua tiếng hát nam ca sĩ Elvis Phương, tôi biết
thêm một Paris bên kia địa cầu, có ánh trăng phủ bờ sông Seine, có sương mù trắng
tựa màu áo, tan loãng giữa trời mùa Thu.
“Paris có
gì lạ không em?
Mai anh về
giữa bến sông Seine
Anh về giữa
một giòng sông trắng
Là áo
sương mù hay áo em?
Em có đứng
ở bên bờ sông?
Làm ơn che
khuất nửa vừng trăng
Anh về có
nương theo giòng nước
Anh sẽ tìm
em trong bóng trăng…”
Rồi, từ
“Paris có gì lạ không em” – tôi biết thêm một Nguyên Sa từng yêu và nhớ Paris
như yêu và nhớ một người tình…
“…tôi yêu
Paris hơn một người bạn yêu một người bạn
hơn một
người yêu yêu một người yêu” (Paris)
Nguyên Sa
tên thật là Trần Bích Lan, sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932 tại Hà Nội, ông còn có
bút danh Hư Trúc khi làm thơ, nhà báo. Ông còn là một giáo sư triết học nổi tiếng
của Sài Gòn trước năm 1975.
Năm 1949, Nguyên Sa du học Pháp và ở tại
Provins. Chính thời gian này, theo một số tài liệu về cuộc đời ông, chính những
cuộc chia ly đã trở thành nguồn cảm hứng cho sự ra đời. của Mai Tôi Đi, Paris
Có Gì Lạ Không Em, Tiễn Biệt. Bút danh Nguyên Sa cũng ra đời trong thời gian
này.
Ngày 17
Tháng Mười Hai, năm 1955, chỉ vài ngày trước khi về lại Việt Nam, Nguyên Sa lập
gia đình với bà Trịnh Thuý Nga ở Paris với lý do: “Làm đám cưới để có thể cùng
nhau hồi hương được thuận tiện hơn.”
Năm 1975,
ông di tản đi Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình qua Hoa Kỳ và ở California từ
đó cho tới ngày qua đời. Ông mất ngày 18 Tháng Tư, 1998.
Tôi đã được
trải qua những tháng năm đẹp nhất đời, với Sài Gòn, với thơ Nguyên Sa, với những
bài nhạc tình phổ từ thơ của ông. Thời đó, mỗi khi nói về chuyện yêu đương học
trò, ngoài những câu “kinh điển” của Xuân Diệu như “Yêu là chết trong lòng một
ít” thì trên những góc vở hay cuối trang tập, hay trang lưu bút, xuất hiện nhiều
nhất là những vần thơ tình của Nguyên Sa.
“Anh vẫn
nhớ em ngồi đây, tóc ngắn
Mà mùa thu
dài lắm ở chung quanh
Linh hồn
anh vội vã vẽ chân dung
Bày vội vã
vào trong hồn mở cửa…”
Hoặc những
câu thơ rất “đời” với những hình ảnh bình dị trong cuộc sống
“Hôm nay
Nga buồn như con chó ốm,
Như con
mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá
ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận
sao chả là nước biển…” (Nga)
Thi sĩ
Nguyên Sa và phu nhân trong Vườn Luxembourg, Paris, 1954. (Hình: rfa.org)
Ngày đó,
chúng tôi nào biết “Nga” là ai, chỉ biết cái tên ấy được lứa tuổi “nhất quỉ nhì
ma thứ ba học trò” trêu chọc bằng những cái tên…đang yêu như Tâm, Trang, Thy…
Tôi nhớ trong lớp học xưa, có cô bạn gái cũng mang tên Nga. Ngày đó, Nga cũng
yêu. Tình yêu tuổi học trò đẹp như nắng Sài Gòn, trắng tinh khôi như hai tà áo.
Ngày ấy, Sài Gòn còn rợp bóng hai hàng cây xanh mướt. Chúng tôi thường lén nhìn
xuống cửa sổ lớp học mỗi đầu ngày, rồi cười khúc khích khi thấy cô bạn gái tên
Nga dẫn xe đạp đi bên cạnh anh chàng học cùng trường, khác lớp. Những ngày tình
yêu học trò bị “thử thách” bởi những lần giận dỗi, chúng tôi lại chọc ghẹo cô bạn
gái bằng câu thơ Nguyên Sa: “Hôm nay Nga buồn như con chó ốm/Như con mèo ngái
ngủ trên tay T.”
Mãi rất
lâu sau này, khi có cơ hội tìm đến các tài liệu về Văn học Nghệ thuật Việt Nam,
tôi mới biết “Nga” là nhân vật có thật, là phu nhân của ông – bà Trịnh Thuý
Nga. Bài thơ “Nga” còn có một chí tiết đặc biệt khác, đó là được in thay giấy
báo tin thành hôn của hai người vào mùa Giáng Sinh 1954.
Thơ của
Nguyên Sa không hào nhoáng, không bay bướm. Trái lại, nó giản dị đến mức…trần tục.
Nhưng đó là cái trần tục của một gã giang hồ lãng tử. Đó là cái trần tục của một
gã say tình nhưng không dám chạm vào trái cấm.
“…Khi em đến
nằm ngoan trên đồi cỏ
Có bỡ ngỡ
là mặt trời bỡ ngỡ
Có xôn xao
là núi lớn xôn xao
Cánh tay
anh, anh đã dặn nằm im
Đôi mắt
anh đã trở thành tinh tú
Đứng thật
xa để canh chừng giấc ngủ
Đứng thật
cao như ngọn hải đăng
Anh canh
chừng con thuyền lạ đi ngang
Sẽ chở em
về quê hương thần thoại…” (Kỳ Diệu)
Nguyên Sa
đã dùng những hình ảnh mềm mại nhất nhưng cũng dữ dội nhất (đôi mắt, con thuyền,
tinh tú…) để thổ lộ tình vào thơ. Một sự thổ lộ tinh tế và duyên dáng.
“Áo nàng
vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng
xanh tôi mến lá sân trường
Sợ thư
tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực
cho vừa màu áo tím…” (Tuổi Mười Ba)
Thơ của
ông là một bầu trời tự do, tự do đến mức lạc vần, không điệu. Bài thơ Paris ông
viết là một ví dụ
“…Rồi cả
người
cả Paris
nhìn tôi qua một nụ cười nhắn nhủ
nụ cười mềm
như ánh nắng của cuộc chia ly
của một buổi
sáng mai khi những người phu đổ rác bắt đầu đi
những
thùng rác bắt đầu cọ vào nhau
với những
tiếng kêu của một loài sắt lạnh
như những
tiếng kêu của những chiếc đinh khô, những mình búa rắn
của những
đôi mắt nhìn theo
và tôi
cũng nhìn theo
không biết
người ta vừa khâm liệm mình hay khâm liệm một người yêu
Dù người
yêu không phải là người con gái có mớ tóc vàng…” (Paris)
hay
“Paris có
gì lạ không EM?
Mai anh về
em có còn NGOAN
Mùa xuân
hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm
anh trong cánh chim…” (Paris Có Gì Lạ Không Em)
Trong một
tài liệu về Nguyên Sa, trích dẫn lý giải của ông về điều này:
“NGOAN với
EM là vần ép, SÔNG và TRĂNG thì lạc vận không còn gì để nghi ngờ. Tôi chấp nhận.
Tôi nghĩ nếu có trách cứ về những vần cưỡng ép và vần lạc thì cũng đúng thôi,
tôi không có gì để biện minh. Tôi chọn lựa nền âm thanh, chọn lựa sự xuất hiện
của hàng loạt những tiếng đồng âm, tạo thành một nền âm thanh, để cho những vẫn
chỉ có từ thông vận đến lạc vận, bay nhảy.
Tôi vẫn
nghĩ là tôi có nhiều may mắn. Tôi không thấy người đọc nào than trách về những
sử dụng vần điệu vượt ra ngoài khuôn khổ của vần điệu, hoàn toàn xây dựng trên
sự mơ ước sáng tạo, sự phối hợp âm thanh của cả đoạn, của nhiều đoạn, của cả
bài.
Chỗ dung
thân của thơ phải chăng là sự bao dung có tên là tình yêu?”
Có lẽ,
chính “sự bao dung có tên là tình yêu” đó mà rất nhiều mối tình học trò (trong
đó có tôi) đã mượn thơ của ông để “nuôi tình mình khôn lớn.” Có những cuộc tình
không trọn, nhưng chắc chắn nó đã được sống một khoảng đời rất đẹp với thơ của
Nguyên Sa.
Cho đến
ngày hôm nay, thơ của Nguyên Sa đối với thế hệ chúng tôi mãi mãi là ký ức ngọt
ngào về một Sài Gòn tuy đã qua thời hoa lệ, nhưng vẫn là một Sài Gòn của tuổi
đôi mươi với hàng cây me xanh thẳm, những buổi chiều tan học mưa trắng trời, những
câu chuyện bất tận về một Paris lãng mạn vô cùng xa lạ ngày đó. Không thể phủ
nhận, chính những cuộc tình trên sông Seine, những bóng dáng thướt tha trong
sương mù, hay hè phố Saint Michel trong thơ Nguyên Sa đã chắp cánh ước mơ của
các cô cậu học trò chúng tôi, ru chúng tôi vào những giấc mộng đời thật đẹp,
bao dung và độ lượng.
Do thế mà
tháng Tư về, lại nhớ Nguyên Sa!
Người Hoa - Chợ Lớn - Nguyễn Ngọc Chính.
Người Tầu, Ba Tầu, Các Chú, Khách Trú và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích:
“... An Nam ta kêu là Tầu, người bên Tầu, là vì khách thường đi Tầu qua đây, lại dùng Tầu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tầu, hàng Tầu, đồ Tầu v.v. Từ Ba–Tầu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn–Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tầu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tầu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu...”.
...Kêu Các chú là bởi người Minh hương mà ra; mẹ An Nam cha Khách nên nhìn người Tầu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bạy theo làm vậy...”.
“... Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tầu hay giữ phép, cũng như An Nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu, vân vân. Người An Nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc...”
Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê Ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa. Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu:
Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!
Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp, bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua... và nhất là món hủ tíu Tiều Châu. Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba... để chỉ người Tầu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tầu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba.
Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955–1963) đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa. Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn... được Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2,000 người giữ lại Hoa tịch.
Người Tầu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập cảng. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tầu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang. Cũng như người Tầu ở Hồng Kông và Macao, người Tầu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại(Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.
Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tầu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ). Trong lĩnh vực ăn uống của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tầu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tầu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tầu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.
Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt–Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống theo người Tầu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm–bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị. Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tầu gốc Quảng Đông, ở Sài Gòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tầu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.
Theo Bình–nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tầu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô–tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:
– Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!
– Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
– Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
– Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.
Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại... “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:
– Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc
– Bà hai mập, ba đồng sáu cắc
– Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về
Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc–en–ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu... Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quý như whisky, cognac và Mao Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan gì đến Mao Xếnh Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp đãi các nguyên thủ quốc gia).
Cơm Tầu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi. Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi! Hình dưới đây là những thố cơm chụp tại Quán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?). Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá... còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!
Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Bạn không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn. Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tầu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào... đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn. Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tầu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tầu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long... trong truyện Tam Quốc.
Ăn điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại... Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như... thuốc bắc. Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc Con Chim (3). Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu–cha–quẩy (người miền Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.
Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên... húp. Nhà văn Bình–nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “... Người cha đứa bé rót cà phê ra đĩa cho mau nguội, rồi nâng đĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50–60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc trưng của Sài Gòn xưa. Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là... đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).
Những từ ngữ vay mượn của người Tầu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã sử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ. Lạp xưởng là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tầu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi...
Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu. Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.
Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dầy thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay. Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối... Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía.
Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của Tầu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Bí quyết gia truyền của các món này là ướp ngũ vị hương rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm. Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tầu là phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tầu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán... cho tôi... 20 đồng... thịt quay...” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng!
Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tầu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tầu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tầu có nghĩa là Đại–Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là xóc đĩa. Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.
Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tầu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lũ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lũ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lũ hai), thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại – three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kỳ nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.
Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của người Tầu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tầu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát. Chú Hỏa (1845–1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sĩ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú Sài Gòn xưa)
Một số người Tầu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bông Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tầu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do.
Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là “đại gia”. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, Tầu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”. Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng Tầu Rạng Đông...
Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”.
Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos! Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn – Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô...; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).
Nguyễn Ngọc Chính (Hồi Ức Một Đời Người)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét