Dịch tễ học nhận định rằng cha mẹ bị ung thư thì các con
cũng dễ bị ung thư, do ung thư có tính di truyền, sự thực đây là một kết
luận sai lầm.
★ Lý do thực sự là do chế độ ăn uống của cha mẹ và con
cái có mối tương quan khá cao.Vì thiếu vitamin B2 là nguyên nhân chính
của bệnh ung thư.
★ Nguyên nhân gây ra ung thư và nhiều loại bệnh khác:
1, Cơ thể trong thời gian dài bị thiếu trầm trọng vitamin
B2 là nguyên nhân chính hình thành các khối ung thư.
2, Một loạt các bệnh viêm loét đường tiêu hóa, chảy máu,
khối u, polyp, u xơ tử cung, bệnh xơ gan cũng do thiếu vitamin B2 gây ra.
3, Bệnh trĩ cũng do thiếu vitamin B2.
4, Thoái hóa cổ tử cung phụ nữ cũng do thiếu vitamin B2.
5, Thường được gọi là "bị nhiệt" là do vitamin
B2 trong thiếu hụt đột ngột.
★ Vì vậy, kịp thời, bổ sung đầy đủ vitamin B2, các triệu
chứng này sẽ giảm đi, thiếu nghiêm trọng của vitamin B2 là nguyên nhân gốc rễ
hình thành khối ung thư.
★ Tại sao thiếu vitamin B2 sẽ xuất hiện mẩn đỏ, sưng tấy?
Lý do chính là do các mạch máu tạo thành.Các mạch máu tế bào tường không thể
không có vitamin B2, khi thiếu vitamin B2, thành mạch máu (chủ yếu là các mao mạch,
tường mạch máu vốn dĩ đã rất mỏng) giờ lại càng mỏng hơn, khi huyết áp tạo áp lực,
mạch máu bắt đầu phình ra bên ngoài, cùng lúc mạch máu cục bộ bắt đầu tập hợp để tạo thành một khối u, và cuối cùng là xuất hiện các vết nứt
xuất huyết mạch máu, khi nó xảy ra trong não, bạn đoán được chuyện gì sẽ xảy ra
rồi chứ? Đây chính là xuất huyết não.
▲Ung
thư ẩn trong cơ thể người dài hạn, thiếu vitamin B2 trầm trọng, sẽ
có các triệu chứng biểu hiện khác nhau, suy thoái chức năng các cơ quan sớm và
luôn có một dấu hiệu chung là sự sụp đổ sắp xảy ra trong từng bộ phận của cơ thể.
Điều này giải thích một cách hợp lý lý do tại sao khi loại
bỏ hoàn thành khối ung thư, mà vẫn không thể tránh được sự phát triển và tái
phát của nó, không phải là các tế bào ung thư đã di căn, mà là các mô và các cơ
quan bên trong đã bị sụp đổ từ lúc khối u mới hình thành.
★ Vitamin B2 trong cơ thể con người không có bất kỳ
tác dụng phụ nào, hấp thụ vitamin B2 quá mức sẽ được thải ra ngoài qua nước tiểu.
Do đó, không cần lo lắng về vấn đề dùng quá liều.
★ Có một vấn đề chúng ta phải chú ý, vitamin B2 dễ
dàng bị phân hủy dưới ánh sáng, dẫn đến mất công hiệu, một chai vitamin B2, sau
một tháng mở nắp nếu không uống hết, thì phần còn lại cũng đã hoàn toàn hết
công hiệu, uống vào cũng sẽ cảm thấy vô dụng, lúc đó bạn cần phải mua chai mới,
tốt nhất nên sử dụng với hạn sản xuất trong vòng 6 tháng
★ "Mười người chín trĩ", là một câu
nói dân gian, đề cập đến một tỷ lệ cao của bệnh trĩ, nói lên thực tế, việc thiếu
vitamin B2 của hầu hết mọi người là khá phổ biến.
Dịch tễ học nhận định rằng cha mẹ bị ung thư, trẻ em cũng
dễ bị ung thư, do ung thư có tính di truyền, sự thực đây là một kết
luận sai lầm.
★ Lý do thực sự chính là cha mẹ và con cái có một mức
tương đối cao sự tương tự trong chế độ ăn uống, cha mẹ thích thức ăn cay, thường
xuyên tức giận, cũng sẽ gây thiếu vitamin B2, rồi các con chắc chắn cũng sẽ yêu
thích thức ăn cay, thiếu vitamin B2 sẽ là điều hiển nhiên. Ngay cả sau khi con
tách khỏi cha mẹ, vẫn giữ lại thói quen ăn uống như thế, do đó cha mẹ có bệnh rồi
con cái cũng sinh bệnh này là điều không đáng ngạc nhiên.
★ Tại sao ăn nguyên hạt các loại ngũ cốc sẽ không dễ bị
ung thư ? Bây giờ bạn cần tìm hiểu điều đó ngay, trên thực tế, ngũ cốc (chủ
yếu ở da, vỏ) chứa nhiều vitamin B2, nếu da và vỏ đều bi loại bỏ , thì
công dụng sẽ bị suy giảm đáng kể.
★ Một số người thường uống vitamin cho rằng bản thân sẽ
không thể thiếu vitamin B2, nhưng trên thực tế, vitamin B2 có chứa trong
vitamin hàng ngày không thể đáp ứng đủ nhu cầu mỗi ngày cho cơ thể con người.
Dưới đây chia sẻ với bạn chế độ ăn uống về các thực phẩm
kháng ung thư!
01: Khoai lang nấu chín 98,7%
02: Khoai lang sống 94,4%
03: Măng tây 93,9%
04: Bông cải 82,8%
05: Bắp cải 91,4%
06: Hoa cải dầu 90,8%
07: Cần tây 83,7%
08: Cà tím 74.0%
09: Tiêu 55,5%
10: Cà rốt 46,5%
11: Cây linh lăng 37,6%
12: Cây tể thái 35,4%
13: Su hào 34,7%
14: Cây mù tạt 32,9%
15: Cải dưa 29,8%.
16: Cà chua 23,8%
Lời khuyên: Tất cả các loại khoai lang
đều có chứa collagen, khoai lang vàng nhiều nhất, và hầu hết các thành phần chống
ung thư chứa nhiều nhất ở khoai lang tím, và nước chanh nóng không đường.
Nguyễn Anh
Trí nhớ ngày càng kém cũng đừng lo lắng. Cúc Hương và Cúc
Hoàng, đã gửi tôi những chỉ dẫn sau đây. Tôi chia sẻ cùng các bạn:
7 mẹo dưới đây sẽ giúp bạn cải thiện trí nhớ, minh mẫn
như xưa! -
Rất nhiều người đã trải qua việc như thế này: Có chuyện
muốn nói, nhưng khi mở miệng ra thì không biết nói gì; Đi được nửa đường,
nhưng lại không nghĩ ra là đi làm gì; Vừa đặt đồ xuống liền quên mất là để
ở
đâu rồi…
Suy giảm trí nhớ bắt nguồn từ nhiều phương diện. Một trong số các nguyên
nhân đó là không khí trong phòng thiếu oxy, máu lưu thông không tốt, dẫn đến
não bộ không được cung cấp đủ máu khiến xuất hiện các cảm giác đau đầu
chóng mặt, suy giảm trí nhớ.
Thực ra chỉ cần một số động tác nhỏ trong cuộc sống – nếu bạn thường xuyên
tập luyện sẽ rất có ích cho việc cải thiện trí nhớ.
Mẹo 1: Nâng cao chân
Khi phần cẳng chân được nhấc lên, cao hơn vị trí của tim một chút thì máu ở
phần cẳng chân và đùi sẽ chảy về phổi và tim, không những có thể giảm áp lực
cho tĩnh mạch ở cẳng chân và đùi mà còn khiến cho lượng máu cung cấp cho
phần đầu tăng lên, khiến tinh thần của bạn trở nên sảng khoái.
Mẹo 2: Lắc đầu qua lại
Các động mạch ở cổ là đường ống để cung cấp máu cho não. Lắc đầu khiến cho
những bộ phận này vận động, không những có thể tăng lượng máu cung cấp cho
não mà còn có thể giảm khả năng chất béo ứ đọng lại trong động mạch cổ. Đồng
thời nó cũng có tác dụng phòng ngừa bệnh cao huyết áp và thoái hóa đốt sống
cổ.
Mẹo 3: Vươn vai
Cơ thể nếu ở trong một tư thế quá lâu, phần điểm cuối của mạch máu ở tay sẽ
bị tích tụ rất nhiều máu. Động tác vươn vai là quá trình cơ bắp được thắt
chặt và thả lỏng, lượng máu tích tụ cũng được đưa về tim.
Tim sẽ nhận được nhiều máu để đưa đến các cơ quan trong cơ thể, trong đó đại
não cũng được chia cho một phần.
Mẹo 4: Chải tóc
Mang theo bên mình một cây lược hoặc là lấy tay để chải tóc có thể cải thiện
sự chuyển động của máu ở phần da đầu.
Cách làm cụ thể: Mở nhẹ mười ngón tay, chải tóc từ trước ra sau từ trên xuống
dưới, một ngày làm 3-4 lần, mỗi lần từ 3-5 phút có thể tác dụng nâng cao
trí lực, tinh thần được thả lỏng và chăm sóc sức khỏe não, nó đặc biệt có
ích cho những người mắc bệnh suy nhược thần kinh.
Mẹo 5: Cắn chặt răng
Khi cắn chặt răng, lượng nước bọt bài tiết ra sẽ tăng lên, trong nước bọt
có chứa Parotin có tác dụng trì hoãn sự già yếu. Mấy năm gần đây có nghiên
cứu phát hiện ra rằng, trong nước bọt có chứa thành phần ức
chế ung thư, có tác dụng phòng ngừa các u ác tính ở đường tiêu hóa.
Mẹo 6: Vận động ngón tay
Ngón tay là đại não thứ hai của con người, thông qua việc vận động ngón
tay có thể kích thích đại não, làm trì hoãn sự chết đi của các tế bào não.
Duỗi các ngón tay ra, cuộn tròn chúng lại, hai động tác thực hiện xen kẽ
nhau, hoặc là hai tay thay phiên nhau mát xa các đầu ngón tay. Bạn cũng có
thể thường xuyên dùng tay để nắm các quả bóng tập gym, để hai quả bóng gym
chuyển động trong tay. Hoặc là bạn có thể trộn gạo và đỗ đen lại với nhau
sau đó lại nhặt tách chúng ra. Dùng những động tác này để vận động hai tay
sẽ đạt được mục đích là tăng cường và duy trì trí nhớ của đại não.
Mẹo 7: Vận động kích thích
Vận động có thể kích thích sự hoạt động của lớp vỏ đại não khiến não khỏe
hơn. Một tuần chạy bộ, đi nhanh 5 lần, mỗi lần tập trong nửa tiếng, tuy
đơn giản nhưng lại giúp tăng cường trí nhớ.
Nước chiếm 50% thể tích đại não, chăm chỉ uống nước không những có thể trì
hoãn sự già hóa mà còn có ích cho đại não. Khi uống nước nên nắm vững
nguyên tắc chia làm nhiều lần uống, mỗi lần uống một lượng nhỏ, đợi khi
khát mới uống thì có nghĩa là cơ thể bạn khá thiếu nước rồi.
Bổ túc Cà Phê Là Thuốc Trường Sinh.
CAFFEINE CHỈ LÀ CHẤT KÍCH THÍCH –
TÁCH CÀ PHÊ MỚI LÀ THUỐC TRƯỜNG SINH
Nếu bạn ở tuổi trên trung niên, khoảng trên dưới 50 tuổi và biết có một viên thuốc mà bạn có thể dùng mỗi ngày không phải để trị bệnh gì cả, nhưng sẽ làm giảm nguy cơ tử vong đến 30% trong bảy năm tới so với những người không uống viên thuốc “trường sinh “ đó , tôi nghĩ bạn sẽ uống viên thuốc ấy ngay.
Bản tin từ báo New York Times về một khảo cứu công bố trên báo Y học Annals of Internal Medicine cho thấy uống từ 1.5 đến 3 tách cà phê mỗi ngày là viên thuốc trường sinh nói trên. Bất kể là bạn uống cà phê có 1 muỗng đường hay cà phê đen và kể cả cà phê decaf ( gần như không có caffeine, là loại cà phê được loại bỏ ít nhất 97% caffeine), bạn đều giảm được tử vong so với người cùng tuổi không uống cà phê.
Trong Y học hiện nay, chưa có một thuốc nào không dùng để chữa bệnh mà có thể giúp người tiêu thụ sống lâu hơn như vậy. Do đó, chúng ta có thể gọi cà phê là một thuốc “trường sinh” vì cà phê không phải là một chất dinh dưỡng.
Theo lịch sử thì cà phê có nguồn từ Trung Đông khoảng Thế Kỷ thứ 15, được đưa vào Âu châu thời Đế Quốc Ottoman và trở thành phổ thông vì có vị đậm đà với mùi thơm dể chịu và giúp hưng phấn làm tỉnh táo tinh thần người tiêu thụ. Người Pháp mang cà phê vào Việt Nam thời thuộc địa. Họ còn khởi xướng việc trồng cây cà phê ở Ban Mê Thuột vẫn còn tồn tại đến hôm nay.
Caffeine là một hóa chất trích ra từ cà phê và có đặc tính kích thích não bộ khiến thần trí tỉnh táo và bớt buồn ngủ. Caffeine cũng khiến áp huyết tăng tạm thời làm tăng lượng máu lọc qua thận nên gây lợi tiểu. Nhịp tim cũng tăng nhanh tạm thời trong lúc ấy. Caffeine được bỏ vào các thức uống, hay chewing gum (kẹo cao su, kẹo nhai) để giúp hưng phấn và tỉnh ngủ. Người có chứng nhịp tim nhanh rối loạn nên tránh dùng caffeine. Caffeine không có màu, không có mùi, vị đắng và không có bằng chứng để tin rằng caffeine làm tăng tuổi thọ.
Những hóa chất khác, đa số là chất kháng oxy trong tách cà phê kể cả cà phê decaf với màu nâu sậm, hương thơm ngào ngạt giúp giảm tử vong nên tăng tuổi thọ như đã nói ở trên mà cơ chế vẫn chưa được biết rõ.
Mỗi tách hay ly cà phê có khoảng 180-200 mg caffeine. Cà phê decaf chỉ có khoảng 5-10 mg trong mỗi tách. Muốn khỏi mất ngủ thì chỉ nên uống cà phê decaf sau 2 giờ chiều. Tách cà phê buổi sáng và buổi trưa giúp hưng phấn tỉnh táo và cũng là thuốc trường sinh kể cả tách cà phê decaf vào buổi chiều tối. Nếu bị chứng nhịp tim rối loạn nhanh thì chỉ uống decaf mà thôi thì cũng tốt vậy. Xin nâng tách cà phê và chúc sức khỏe thật dồi dào.
BS Phạm Hiếu Liêm
Thuốc Bổ Thận.
Nhiều quý vị hỏi tôi uống thuốc nào bổ thận. Bài viết này chỉ ra thận chúng ta không nhất thiết phải dùng thuốc bổ vì thận chúng ta là cơ quan tuyệt vời, có khả năng phục hồi. Chỉ cần chúng ta không hại thận là chúng ta đã "bổ thận" rồi. Cũng như cách chúng ta làm bổ não bằng những cách không hại não (video # 355).
Thận chúng ta là cái máy lọc chăm chỉ làm việc cả đời
- Mỗi ngày, mỗi quả thận chúng ta làm việc không ngừng nghĩ, lọc khoảng 200 lít máu mỗi ngày, loại ra khoảng 2 lít chất độc hại ra khỏi cơ thể dưới dạng nước tiểu và chất thải. Chúng ta có hai quả thận mà nếu chẳng may 1 quả hư thì quả thận còn lại vẫn lọc tốt. Các nghiên cứu chỉ ra chúng ta có thể sống bình thường chỉ với 1 quả thận. Thận ngoài chức năng lọc máu còn là cơ quan nội tiết ra hormone, hiệu chỉnh và cân bằng huyết áp, hiệu chỉnh các chất điện giải, và nhiều chứng năng quan trọng khác.
- Bên trong mỗi quả thận chúng ta là hàng triệu cái máy lọc li ti (nephron) nhỏ xíu, có một bộ lọc ở giữa. Bộ lọc này rất dễ bị tổn thương. Ví dụ như áp lực đổ về bộ lọc li ti nhiều quá (cao huyết áp) hay ít có nước vào bộ lọc này (như khi bị tụt huyết áp, thiếu nước) cũng làm bộ phận lọc bị hư. Nếu nước đổ về máy lọc bị "bẩn" như máu bị tiểu đường hay nhiễm mỡ, hay bệnh nhân dùng nhiều thuốc cũng có thể làm bộ lọc li ti này tổn thương.
- Thuốc uống, đặc biệt là thuốc giảm đau (NSAID) và thuốc trụ sinh (Antibiotic) là những thứ có thể làm hại thận nếu uống liên tục lâu dài.
- Thực phẩm chức năng và các thuốc mua ngoài tiệm (OTC) cũng là lý do khác dẫn đến hư thận (1)
- Vì vậy, chữa thận (hay làm bổ thận) bắt đầu bằng việc chỉnh lại áp lực (kiểm soát huyết áp) và làm sạch nguồn nước (chữa tiểu đường, cao mỡ, hay không dùng thuốc bừa bãi), ngủ đủ, và tập thể dục.
Thận hư dẫn đến các bệnh khác nguy hiểm hơn, giảm chất lượng cuộc sống và tăng rủi ro tử vong
- Một khi bệnh nhân bị hư thận (Chronic Kidney Disease) thì các bệnh khác có rủi ro tăng cao. Ví dụ như bệnh Gout nặng hơn do chất uric acid không lọc ra ngoài hoàn toàn, dẫn đến viêm khớp đau hơn. Thận hư còn dẫn đến các rủi ro về tiểu đường, tim mạch nặng hơn, dẫn đến rủi ro trụy tim hay đột quỵ.
- Khi bệnh nhân chạy thận nhân tạo (Dialysis) thi các rủi ro tử vong càng cao. Nghiên cứu chỉ ra chỉ còn khoảng 50% bệnh nhân còn sống sau 5 năm chạy thận nhân tạo (2). Vì vậy, ngăn ngừa tử vong từ bệnh thận mạn tính bắt đầu bằng kiểm soát tốt các giai đoạn suy thận, và hạn chế, làm chậm quá trình tiến triển thành chạy thận nhân tạo
Bệnh thận (CKD) chủ yếu là do lối sống
- nghiên cứu từ viện sức khỏe quốc gia (NIH) (3) chỉ ra các lý do chính dẫn đến bệnh thận là từ các bệnh do lối sống của chúng ta.
1. Tiểu đường: là lý do hàng đầu dẫn đến hư thận. Các nghiên cứu chỉ ra cao đường huyết làm tổn thương vĩnh viễn các bộ lọc liti, làm tăng bệnh động mạch máu li ti ở cầu thận. Kiểm soát tiểu đường có thể làm phục hồi chức năng thận, nhiều trường hợp có thể phục hồi hoàn toàn nếu bệnh tiểu đường chưa nặng.
2. Cao huyết áp: là lý do hàng đầu khác dẫn đến bệnh thận mạn tính. Huyết áp cao làm tổn thương vĩnh viễn các bộ lọc li ti ở cầu thận, làm xơ cứng động mạch. Kiểm soát huyết áp thường sẽ cải thiện chức năng thận.
3. Các bệnh tự miễn hoặc di truyền: là những bệnh có thể chẩn đoán sớm, như lupus, viêm khớp dạng thấp, viêm cầu thận hay bệnh hư thận do di truyền trong gia đình.
4. Thuốc (gồm cả thực phẩm chức năng) là những lý do tăng lên gần đây do bệnh nhân dùng thuốc quá liều. Thuốc giảm đau và thuốc trụ sinh làm bộ lọc thận bị viêm sưng, dẫn đến tổn thương lâu dài. Với thực phẩm chức năng, các hóa chất bảo quản và các chất phụ gia cũng có thể làm tổn thương bộ lọc thận.
- Tập thể dục thường xuyên giúp tim bơm máu đến thận điều hòa và hiệu quả, là cách hữu hiệu để bổ thận. Khi tậo thể dục, máu lọc qua thận tốt hơn, chúng ta uống nước nhiều hơn, càng làm việc lọc chất thải tốt hơn.
Chẩn đoán bệnh thận bắt đầu bằng chỉ số đo lường GFR (Glomerular Filtration Rate) và chỉ số Creatinin (Cr.)
- Do các giai đoạn sớm của bệnh thận mạn tính không có triệu chứng nên BS sẽ dùng các chỉ số lab để chẩn đoán bệnh thận. Chỉ số GFR ước tính thận chúng ta lọc được bao nhiêu ml mỗi phút. Đây là chì số lọc thận quan trọng nhất mà quý vị cần nhớ khi gặp BS. Tùy vào chỉ số này mà chúng ta có thể ước lượng sức khỏe lọc thận. Khi chúng ta càng lớn tuổi thì chỉ số GFR càng giảm theo thời gian.
- Lưu ý là khi đọc dịch chỉ số GFR BS phải kèm theo các bệnh lý khác như cao huyết áp, tiểu đường, hay cao mỡ, bệnh đau khớp (do dùng thuốc thường xuyên), hay nhiễm trùng (dùng trụ sinh) hay dùng thực phẩm chức năng vì những bệnh này có thể ảnh hưởng đến chỉ số GFR.
- Nhìn chung, chỉ số GFR càng cao thì càng tốt. Ví dụ như trên 90 là rất tốt, GFR khoảng 60-90 là bình thường nhưng cần theo dõi. Khi GFR dưới 60 là nguy hiểm. Lúc này thì chúng ta theo dõi xem xu hướng tăng hay giảm, và nếu giảm thì giảm nhanh hay giảm chậm. Ví dụ như GFR tháng này là 55, ba tháng sau vẫn là 55 và các chỉ số huyết áp,tiểu đường, và mỡ vẫn ổn định thì chúng ta tiếp tục theo dõi tiếp.
- Chỉ số Creatinin (Cr.) là chất thải trong cơ thể từ các cơ bắp và cơ quan. Thường thận sẽ lọc chất thải này ra ngoài nên chúng ta sẽ thấy chỉ số Cr. thấp. Khi thận thư thì khả năng lọc giảm nên chỉ số Cr. có thể tăng cao. Thường chỉ số Cr. thấp hơn 1.4 ở nam và thấp hơn 1.2 ở nữ. Khi máu co chỉ số Cr cao, kết hợp với giảm GFR thì khả năng cao là quý vị bị hư thận.
- BS sẽ cho quý vị chụp siêu âm, CT, hay MRI để xem cấu trúc thận. BS có thể sẽ cho các thử nghiệm khác để kiểm tra xem có bị nghẽn động mạch hay không để tìm ra lý do bị hư thận.
Chữa trị bệnh thận bằng chữa các lý do trên
- Các thuốc huyết áp, đặc biệt là dòng ACEI/ARB được dùng để hỗ trợ và phục hồi bệnh thận. Nghiên cứu chỉ ra ACEI giảm rủi ro các biến chứng về thận (4). Chữa tiểu đường, chữa các bệnh tự miễn, và dùng thuốc giảm đau không phải NSAID (như APAP) và dùng thuốc theo chỉ dẫn của BS sẽ giúp chữa trị bệnh thận mạn tính.
Tóm lại
- Hiểu tầm quan trọng của thận để nâng niu 2 trái thận ngay từ hôm nay bằng cách uống nước đầy đủ, kiểm tra huyết áp, kiểm soát tiểu đường, chế độ ăn uống vừa phải cân bằng. Quý vị xem lại các video của tôi về bệnh thận, ăn uống dành cho bệnh nhân (video #133)
- Khi đã mắc bệnh thận mạn tính thì chúng ta tìm cách giữ độ lọc thận GFR ổn định, nếu phục hồi được thì càng tốt. Gặp BS thận càng sớm càng tốt.
- Cẩn thận với các loại thuốc giảm đau, chỉ dùng chỉ cần thiết. Cẩn thận với các loại thực phẩm chức năng. Uống quá nhiều và bừa bãi sẽ dẫn đến hư thận thay vì bổ thận.
Bs. Wynn Tran, Los Angeles, Hoa Kỳ
Đột quỵ thường xảy ra khi tắm.
Đột quỵ là
tình trạng nguy hiểm tới tính mạng. Có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Nhiều thói
quen sai lầm của chúng ta khi tắm dễ gây ra các cơn đột quỵ.
Trên thực tế, nhiều ca đột quỵ thường xảy ra trong nhà tắm. Trung tâm Y tế khẩn
cấp Ascent, Mỹ, lý giải thủ phạm khiến chúng ta dễ bị đột quỵ trong khi tắm.
1. Nhiệt
độ của nước không phù hợp
Nhiệt độ của nước rất quan trọng khi tắm. Sự chênh lệch nhiệt độ của nước với
cơ thể có thể gây những thay đổi đột ngột về huyết áp. Hệ lụy là dẫn tới tình
trạng hạ hoặc tăng thân nhiệt.
Hạ thân nhiệt là tình trạng cấp cứu y tế khẩn cấp, xảy ra khi cơ thể mất nhiệt
nhanh hơn mức có thể tạo ra. Hậu quả của tình trạng này là cơ thể ở mức nhiệt độ
thấp báo động. Trong khi đó, tăng thân nhiệt là tình trạng cơ thể có lượng nhiệt
cao hơn mức bình thường. Cả hai hiện tượng này đều có thể gây nguy hiểm tới
tính mạng của nạn nhân.
Tăng hoặc hạ thân nhiệt quá mức khiến huyết áp thay đổi đột ngột. Kết quả là nạn
nhân bị thiếu máu cục bộ trong mạch máu não. Đây cũng là thủ phạm dẫn tới các
cơn đột quỵ, đau tim, ngừng tim trong phòng tắm, nhà vệ sinh.
Tiếp xúc nước lạnh đột ngột làm tăng trương lực giao cảm, khiến nhiệt độ của da
giảm nhanh. Kết quả, nạn nhân bị tăng huyết áp. Điều này đặc biệt nguy hiểm với
những người mắc sẵn các bệnh nền là cao huyết áp, nhồi máu cơ tim.
2. Trình tự tắm, gội sai
Thông thường, chúng ta thường làm ướt đầu, tóc trước khi tắm. Theo Trung tâm Y
tế khẩn cấp Ascent, đây là trình tự tắm, gội sai lầm. Đầu là nơi có nhiều mạch
máu, dây thần kinh quan trọng.
Việc làm lạnh đầu trước tạo áp lực lên các dây thần kinh, mạch máu do chênh lệch
nhiệt độ, cơ thể phải cân bằng nhiệt quá nhanh. Chưa kể, nhiệt độ chênh lệch
còn khiến mạch máu co lại, càng khiến chúng dễ bị vỡ hơn. Do đó, trình tự tắm
đúng được khuyến cáo là làm ướt chân trước để cơ thể quen dần với nhiệt độ của
nước. Sau đó, bạn xả nước trên da, cuối cùng là mặt và đầu.
Trượt chân trong nhà tắm cũng khá phổ biến. Tai nạn này khiến đầu của nạn nhân
bị đập xuống sàn hoặc bồn tắm, gây chấn thương nặng.
3. Tắm quá lâu
Tắm quá lâu có thể khiến cho nhiệt độ cơ thể hạ thấp quá mức, gây ảnh hưởng đến
hoạt động của các cơ quan. Điều này sẽ nguy cơ cảm lạnh, ảnh hưởng đến hoạt động
của các mạch máu, huyết áp, dẫn đến ngất xỉu, thậm chí còn có thể 'ra đi'.
Vì vậy, các chuyên gia khuyến cáo thời gian tắm tốt nhất là từ 10 - 20 phút, dù
ngâm bồn thì cũng không nên vượt quá 30 phút.
4. Tắm đêm
Nhiều người do bận rộn nên thường có thói quen tắm đêm, nhưng điều này hoàn
toàn không tốt.
Vì ban đêm nhiệt độ thấp hơn ban ngày, cơ thể con người cũng yếu đi sau 1 ngày
dài vất vả. Nếu tắm nước lạnh sẽ khiến các mạch máu bị co lại, tắm nước ấm thời
điểm này cũng làm tĩnh mạch giãn ra nhiều hơn bình thường.
Vậy nên kể cả tắm nước nóng hay lạnh đều làm giảm tuần hoàn máu, dễ hình thành
cục máu đông hoặc thiếu máu lên não.
Các chuyên gi khuyến cáo, thời điểm tốt nhất để tắm vào buổi tối là trước 21h
và tuyệt đối không tắm gội sau 23h, dù là bằng nước ấm.
Hậu quả nhẹ
thì gây choáng váng, đau đầu, cảm đột ngột còn nặng thì gây ngất xỉu, đột quỵ
não, hôn mê, không qua khỏi. Đặc biệt với những người mắc bệnh tim mạch, huyết
áp.
Sưu Tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét