Vương Quốc Bỉ là một quốc gia xinh đẹp và giàu có, kinh tế
phát đạt, khiến rất nhiều người hâm mộ cuộc sống của người dân nước này. Tại thủ
đô Brussels, Bỉ, có một biểu tượng nổi tiếng là bức tượng “Chú bé đứng tè”. Người
dân Bỉ coi biểu tượng này bảo vật quốc gia. Liên quan đến “Chú bé đứng tè” này
có một câu chuyện lịch sử, mà người Bỉ cho rằng, cậu bé là Anh hùng Dân tộc.
Buc tuong ‘chu be dung te’ an chua mot bi mat lich su - Anh 1
"Chú bé đứng tiểu" - biểu tượng của Vương quốc Bỉ.
Vào thế kỷ 14, mối quan hệ giữa Bỉ và Tây Ban Nha không được tốt đẹp. Tây Ban Nha khi đó là một quốc gia hùng mạnh ở Châu Âu, giáp biên giới với nước Pháp. Nước Bỉ cũng có biên giới tiếp giáp với nước Pháp, nhưng do có mối quan hệ không tốt với Tây Ban Nha, nên Bỉ thường xuyên kết hợp với nước Pháp để đối đầu với Tây Ban Nha.
Vào năm 1367, Tây Ban Nha phái hơn 5000 lính Hải quân và Lục quân tấn công nước Bỉ, sau đó lại phái thêm hơn 20.000 quân lính sang nước Bỉ.
Chỉ trong 2 tháng ngắn ngủi, Tây Ban Nha đã chiếm lĩnh trọn lãnh thổ nước Bỉ, bao gồm thủ đô Bỉ là Brussels. Bỉ bị ép ký kết hiệp ước đầu hàng Tây Ban Nha, và trong vòng 40 năm sau đó không được phép Liên minh với Pháp, đáp ứng điều kiện này thì Tây Ban Nha sẽ rút quân khỏi Bỉ.
Sau mấy tháng thương lượng, Tây Ban Nha cuối cùng đã rút quân về nước, bắt đầu từ tháng 5/1368. Nhưng thời điểm Tây Ban Nha rút quân khỏi Brussels, họ lại nổi lên ý định xấu, đó là muốn dùng thuốc nổ để hủy diệt Brussels.
Những người lính Tây Ban Nha đã hóa trang thành người dân Bỉ, và bí mật chôn giấu mấy vạn tấn thuốc nổ chôn giấu ở nhiều nơi của Brussels. Tất cả số thuốc nổ này cuối cùng được dẫn đến một kíp nổ. Sau đó quân đội Tây Ban Nha gần như đã rút khỏi Brussels, chỉ còn lại mấy binh sĩ tình nguyện ở lại “hiến thân” để châm chíp nổ.
Khi đường dây dẫn để châm ngòi bộc phá đã được nối xong xuôi thì bỗng từ đâu, có một chú bé chạy qua, ung dung đứng tè vào đường dây cháy chậm của quả bộc phá... Ngay lập tức, quả bộc phá bị ướt, và không thể đốt cháy được.
Buc tuong ‘chu be dung te’ an chua mot bi mat lich su - Anh 2
Về sau, quân đội Bỉ phát hiện ra, đã bế cậu bé giơ lên cao và dân chúng Brussels đều ca ngợi cậu bé đã cứu được cả thành phố Brussels, thậm chí là cả nước Bỉ. Tại sao nói rằng cậu bé đã cứu cả nước Bỉ?
Bởi vì, thời ấy nước Bỉ vô cùng nhỏ, hơn nữa còn không phải là một quốc gia nắm hoàn toàn chủ quyền, vẫn bị quản chế bởi nước Pháp. Lúc ấy cả nước Bỉ có hơn 1.000.000 người dân, dân số ở Brussels là 200.000 người, nếu như Brussels bị phá hủy thì cả nước Bỉ cũng sụp đổ.
Năm 1619, nhà Điêu khắc vĩ đại của Bỉ là Jérome Duquesnoy đã tự tay chế tạo ra bức tượng đồng chú bé này. Chú bé này tên là Julien Dillens... Nhiều người sau khi nghe câu chuyện về chú bé này đều cảm thấy đây là câu chuyện cổ tích. Nhưng kỳ thực không phải như vậy, đây là câu chuyện có thật trong lịch sử!
Hồ sơ của nước Bỉ và Tây Ban Nha đều có ghi chép lại đoạn lịch sử này. Cả hai quốc gia đều ghi chép lại quá trình Tây Ban Nha sang tấn công nước Bỉ, quá trình rút quân, và cả việc cậu bé đã làm tắt kíp nổ. Hồ sơ ghi chép ở hai quốc gia này đều khớp với nhau.
Cậu bé này hàng năm đều nhận được quần áo từ mọi người ở khắp nơi trên thế giới. Vì vậy, cậu bé còn được gọi là “Cậu bé có nhiều quần áo nhất thế giới !.”
Hình ảnh bức tượng “Chú bé đứng tiểu” này không chỉ nổi tiếng ở Bỉ, mà còn xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới. Không ngờ, đằng sau bức tượng nhỏ bé tưởng như chỉ là phục vụ cho hoạt động “vui chơi giải trí” lại ẩn giấu một sự kiện lịch sử to lớn như vậy !
Buc tuong ‘chu be dung te’ an chua mot bi mat lich su - Anh 1
"Chú bé đứng tiểu" - biểu tượng của Vương quốc Bỉ.
Vào thế kỷ 14, mối quan hệ giữa Bỉ và Tây Ban Nha không được tốt đẹp. Tây Ban Nha khi đó là một quốc gia hùng mạnh ở Châu Âu, giáp biên giới với nước Pháp. Nước Bỉ cũng có biên giới tiếp giáp với nước Pháp, nhưng do có mối quan hệ không tốt với Tây Ban Nha, nên Bỉ thường xuyên kết hợp với nước Pháp để đối đầu với Tây Ban Nha.
Vào năm 1367, Tây Ban Nha phái hơn 5000 lính Hải quân và Lục quân tấn công nước Bỉ, sau đó lại phái thêm hơn 20.000 quân lính sang nước Bỉ.
Chỉ trong 2 tháng ngắn ngủi, Tây Ban Nha đã chiếm lĩnh trọn lãnh thổ nước Bỉ, bao gồm thủ đô Bỉ là Brussels. Bỉ bị ép ký kết hiệp ước đầu hàng Tây Ban Nha, và trong vòng 40 năm sau đó không được phép Liên minh với Pháp, đáp ứng điều kiện này thì Tây Ban Nha sẽ rút quân khỏi Bỉ.
Sau mấy tháng thương lượng, Tây Ban Nha cuối cùng đã rút quân về nước, bắt đầu từ tháng 5/1368. Nhưng thời điểm Tây Ban Nha rút quân khỏi Brussels, họ lại nổi lên ý định xấu, đó là muốn dùng thuốc nổ để hủy diệt Brussels.
Những người lính Tây Ban Nha đã hóa trang thành người dân Bỉ, và bí mật chôn giấu mấy vạn tấn thuốc nổ chôn giấu ở nhiều nơi của Brussels. Tất cả số thuốc nổ này cuối cùng được dẫn đến một kíp nổ. Sau đó quân đội Tây Ban Nha gần như đã rút khỏi Brussels, chỉ còn lại mấy binh sĩ tình nguyện ở lại “hiến thân” để châm chíp nổ.
Khi đường dây dẫn để châm ngòi bộc phá đã được nối xong xuôi thì bỗng từ đâu, có một chú bé chạy qua, ung dung đứng tè vào đường dây cháy chậm của quả bộc phá... Ngay lập tức, quả bộc phá bị ướt, và không thể đốt cháy được.
Buc tuong ‘chu be dung te’ an chua mot bi mat lich su - Anh 2
Về sau, quân đội Bỉ phát hiện ra, đã bế cậu bé giơ lên cao và dân chúng Brussels đều ca ngợi cậu bé đã cứu được cả thành phố Brussels, thậm chí là cả nước Bỉ. Tại sao nói rằng cậu bé đã cứu cả nước Bỉ?
Bởi vì, thời ấy nước Bỉ vô cùng nhỏ, hơn nữa còn không phải là một quốc gia nắm hoàn toàn chủ quyền, vẫn bị quản chế bởi nước Pháp. Lúc ấy cả nước Bỉ có hơn 1.000.000 người dân, dân số ở Brussels là 200.000 người, nếu như Brussels bị phá hủy thì cả nước Bỉ cũng sụp đổ.
Năm 1619, nhà Điêu khắc vĩ đại của Bỉ là Jérome Duquesnoy đã tự tay chế tạo ra bức tượng đồng chú bé này. Chú bé này tên là Julien Dillens... Nhiều người sau khi nghe câu chuyện về chú bé này đều cảm thấy đây là câu chuyện cổ tích. Nhưng kỳ thực không phải như vậy, đây là câu chuyện có thật trong lịch sử!
Hồ sơ của nước Bỉ và Tây Ban Nha đều có ghi chép lại đoạn lịch sử này. Cả hai quốc gia đều ghi chép lại quá trình Tây Ban Nha sang tấn công nước Bỉ, quá trình rút quân, và cả việc cậu bé đã làm tắt kíp nổ. Hồ sơ ghi chép ở hai quốc gia này đều khớp với nhau.
Cậu bé này hàng năm đều nhận được quần áo từ mọi người ở khắp nơi trên thế giới. Vì vậy, cậu bé còn được gọi là “Cậu bé có nhiều quần áo nhất thế giới !.”
Hình ảnh bức tượng “Chú bé đứng tiểu” này không chỉ nổi tiếng ở Bỉ, mà còn xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới. Không ngờ, đằng sau bức tượng nhỏ bé tưởng như chỉ là phục vụ cho hoạt động “vui chơi giải trí” lại ẩn giấu một sự kiện lịch sử to lớn như vậy !
Người cổ đại từng chế tạo rô-bốt, kết cấu tinh xảo y như thật
Không chỉ khoa học của con người hiện tại mới chế tạo được người máy, mà kỹ thuật sản xuất máy móc của người Trung Quốc cổ đại đã từng rất phát triển, có thể nói là đã đạt đến trình độ vô cùng cao siêu.
Lấy ví dụ, ở triều đại Tây Chu có một vị thợ thủ công tên là Yển Sư. Ông đã tạo ra một người máy biết ca hát nhảy múa gần như giống hệt người thật. Ông muốn dâng nó lên Chu Mục Vương (quân chủ thứ năm của nhà Chu). Người máy này thật đến nỗi ngay cả nội tạng, xương cốt, bộ da và răng tóc đều giống như con người.
Truyện kể rằng, khi Mục Vương đang xuất tuần ở hướng tây, có một thợ thủ công tên Yển Sư đến xin được yết kiến. Khi Yển Sư bước vào cầu kiến, Mục Vương hỏi:
“Ngươi đến đây một mình hay với ai?”
Yển Sư đáp:
“Muôn tâu bệ hạ, Thần có mang theo bên mình một người máy biết ca múa mà thần chế tạo”.
Nói đoạn, Yển Sử trình con người máy cho Mục Vương. Nhạc vừa tấu vang, người máy bắt đầu ca hát nhảy múa, với động tác và âm điệu phát ra phong phú đa dạng. Tiết tấu và cách gieo vần đều nhịp nhàng và hài hòa. Thấy vậy, Mục Vương mười phần thì đến chín phần tin đây không phải là người máy mà là người thật. Do đó, ông yêu cầu nó biểu diễn lại một lần nữa để các phi tần và cung phi được thưởng ngoạn.
Lúc màn biểu diễn chuẩn bị kết thúc, người máy này đột nhiên quay ra nhìn chằm chằm vào các phi tần bên cạnh Mục Vương, nét mặt vô cùng háo sắc. Thấy Mục Vương tỏ vẻ tức giận, Yển Sư ngay lập tức chạy đến tháo rời người máy rồi dâng lên cho Mục Vương xem. Chỉ sau khi xem xong, Mục Vương mới biết hóa ra đây là người máy chứ không phải người thật, được tạo thành từ da, gỗ, keo, sơn, và một số vật liệu đen, trắng, đỏ, xanh.
Quan sát kỹ hơn, Mục Vương phát hiện các cơ quan nội tạng bên trong như gan, mật, tim, phổi, lá lách, dạ dày, ruột và một số cơ quan bên ngoài như xương cốt, da lông, răng tóc, đều giống y như thật. Sau khi được lắp ráp lại, người máy vẫn ca hát nhảy múa như thường.
Mục Vương vô cùng chấn động, bởi ông không thể tin đây chỉ là một loại máy móc được con người chế tạo.
Cân nhắc một hồi, Mục Vương quyết định bỏ đi trái tim, người máy liền không thể nói chuyện. Ông tiếp tục bỏ đi gan, mắt, người máy liền không thể nhìn thấy. Rồi ông bỏ đi thận và đôi chân, khiến nó mất khả năng vận động. Lúc bấy giờ, Mục Vương mới vui vẻ khen ngợi: “Đây quả thật là một sản phẩm tuyệt vời!”. Sau cùng Mục Vương ra lệnh cho Yển Sư mang người máy trở về Trung Nguyên.
Tiến sĩ Joseph Needham người Anh là tác giả loạt sách “Khoa học và nền văn minh Trung Hoa (Science and Civilisation in China)”. Trong đó ông liệt kê 26 loại phát minh của Trung Quốc cổ đại đã được truyền sang Châu Âu, trong đó máy móc cổ xưa chiếm gần 18 loại, ví như Địa chấn kế, đồng hồ cơ khí, la bàn (kim chỉ nam), diều gỗ và Mộc Ngưu Lưu Mã của Gia cát Lượng. Những phát minh này không những thực dụng, mà còn có kết cấu khéo léo, tinh xảo. Kết cấu tinh vi của các loại máy móc thời cổ đại này cho đến nay vẫn chưa thể được lý giải hoàn toàn bằng khoa học hiện đại.
Mộc Ngưu Lưu Mã
Để giải quyết vấn để vận chuyển lương thảo qua các đường núi gập ghềnh, nguy hiểm ở vùng Tứ Xuyên, Gia Cát Lượng đã phát minh ra một loại công cụ vận chuyển tên là Mộc Lưu Ngưu Mã (loại xe ngựa, trâu được làm bằng gỗ, có khả năng tự di chuyển). Nó có thể vận chuyển trọng lượng ước tính lớn hơn khoảng 400 cân, tương đương gần một năm lương thảo. Nếu như hàng hoá ít, mỗi ngày có thể đi được mấy chục dặm, nếu như hàng hóa nhiều thì mỗi ngày có thể đi được chừng 30 dặm. Dùng cách này ông đã có thể cung cấp lương thực cho mười vạn đại quân nước Thục.
Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, có đoạn ghi chép việc Gia Cát Lượng tự tạo Mộc Ngưu Lưu Mã. Đây là loại công cụ vận chuyển vô cùng tiện lợi, bởi vì được chế tạo bằng gỗ nên không cần phải ăn uống nghỉ ngơi, có thể liên tục vận chuyển. Ngoài ra tại đầu lưỡi trong miệng của Mộc Ngưu Lưu Mã có một loại cơ quan vận tác, ngay cả khi bị Tư Mã Ý đánh cắp cũng không thể sử dụng được.
Loại công cụ vận chuyển thần kỳ này, là có thật, chứ không phải chuyện bịa của cổ nhân. Trong sử thi sớm đã có ghi chép, ví như theo ‘Nam Tề Thư -Tổ Trùng chi truyện’: “Gia Cát Lượng tự tạo Mộc Ngưu Lưu Mã, không phải vì để làm phong thủy, mà là một loại máy móc tự vận hành, không cần người điều khiển, không lãng phí sức người”.
Diều Gỗ
Diều gỗ là một loại chim làm bằng gỗ, nhưng có thể bay. Thời Chiến Quốc, Lưu Ban và Mặc Tử đều từng tạo ra diều gỗ.
“Mặc Tử” từng ghi chép:
“Công Thâu Tử vót gọt gỗ, trúc làm thành chim, có thể bay suốt ba ngày trên bầu trời, không rơi xuống mặt đất”.
Hồng Thư cũng có ghi chép:
“Lỗ Bàn chế ra diều gỗ, dùng để quan sát tình hình Tống thành .
Lưu Ban chế tác diều gỗ cũng vì muốn theo dõi tình hình chiến tranh, tương tự như máy bay không người lái hiện đại (drone) với khả năng trinh sát quân địch. Sau này đến thời nhà Hán, Trương Hành cũng chế tạo được diều gỗ. Cho đến hiện nay, kỹ thuật chạm trổ mẫu mã, chế tạo kết cấu máy móc bên trong diều gỗ vẫn còn là một bí ẩn chưa có lời giải.
Tửu Sơn được tạo ra bằng kỹ thuật cao siêu
Theo ghi chép trong “Kỷ Vấn”, vào đầu năm Đường Huyền Tông mở ra thời kỳ khai nguyên, ở vùng Đông Hải có một thợ thủ công tài giỏi tên Mã Đãi Phong. Ông từng tạo ra một ngọn Tửu Sơn (núi rượu) với kỹ thuật cao siêu, tinh tế và tuyệt vời.
Tửu Sơn được đặt trong chiếc mâm tròn với đường kính hơn bốn mét, tọa trên lưng một con rùa lớn. Tất cả cơ quan của hệ thống “tửu sơn” này điều nằm trong bụng rùa. Giữa mâm là một ngọn Tửu Sơn cao chừng ba mét với đỉnh núi được thiết kế đặc biệt kỳ diệu.
Ở giữa Tửu Sơn là khoảng không, có thể chứa được ba đấu rượu. Xung quanh Tửu Sơn là một hồ rượu, bên ngoài hồ rượu còn có các ngọn núi bao quanh. Trong hồ rượu có hoa sen, hoa sen và lá sen đều dùng sắt tạo thành. Khi hoa nở, lá sẽ duỗi thẳng, có thể dùng làm đĩa, phía trên bày thịt khô, một số món ngon, trái cây, dùng để nhắm với rượu. Phía nam eo núi có một con Rồng ẩn thân, từ miệng Rồng phun ra rượu, phía dưới miệng Rồng thiết kế các lá sen lớn, ở giữa lá đặt một chiếc ly để hứng rượu. Rồng chỉ phun chừng tám phần rượu vào ly trước. Sau đó mọi người có thể nâng ly chúc rượu.
Nếu uống rượu quá chậm, hai cánh cửa của lầu các trên đỉnh Tửu Sơn sẽ tự động mở ra, xuất hiện người máy mặc áo, đội nón, tay cầm tấm ván mỏng thúc rượu, nhắc nhở người uống, cho đến khi chiếc ly được đặt trở lại đúng vị trí trên lá sen, để tiếp ly rượu mới. Rồng sẽ bắt đầu phun rượu vào ly, người máy mới tự động quay về bên trong lầu các, cửa tự động đóng lại.
Trong suốt bữa tiệc, chỉ cần có ai đó quên uống rượu hoặc thưởng rượu quá chậm, người máy đều sẽ quay trở ra đốc thúc, liên tục như vậy cho đến khi tiệc tàn cũng không hề xảy ra bất kỳ sai sót nào. Phía Tây Tửu Sơn cũng có Rồng phun rượu. Mặc dù đôi lúc, rượu có thể bị phun lệch vào hồ rượu bên dưới, nhưng trong hồ rượu có thiết kế thông đạo bí mật, có thể dẫn rượu từ hồ rượu quay trở lại Tửu Sơn một cách dễ dàng. Cho tới khi bữa tiệc kết thúc, mực rượu trong hồ vẫn như bình thường, không dâng lên chút nào.
Mã Đãi Phong còn phát minh ra một loại ly tự động, được đặt xung quanh Tửu Sơn, miệng rồng phun rượu vào trong. Khi trong ly không có rượu, ly rượu sẽ bị nghiêng. Khi trong ly chứa một nửa lượng rượu, ly rượu sẽ trở nên cân bằng, ngay ngắn, còn nếu trong ly chứa đầy rượu, ly sẽ tự động lật nghiên, để rượu chảy lại vào hồ.
Có thể thấy, cổ nhân đã có khả năng chế tạo ra những cỗ máy vô cùng cao cấp, với độ chính xác cao, đặc biệt có khả năng tự động hóa toàn bộ, trợ giúp con người rất nhiều trong cuộc sống. Kỹ thuật tinh xảo ấy có lẽ nền khoa học hiện đại ngày nay cũng phải học tập.
Theo Epoch TimesMai Thanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét