Ung thư niệu đạo là một dạng ung thư hiếm gặp ở niệu đạo của cả nam lẫn nữ, chiếm khoảng 1-2% các bệnh ung thư đường tiết niệu.
Ung thư niệu đạo ảnh hưởng đến nữ giới nhiều hơn nam giới. Hầu hết bệnh nhân luôn có những triệu chứng điển hình, một số ít lại không.
Niệu đạo là một ống rỗng cho phép nước tiểu đi từ các cơ quan lưu trữ, bàng quang đến khi sẵn sàng được thải ra ngoài cơ thể. Ở nam, niệu đạo dài khoảng 20cm, đi qua tuyến tiền liệt và dương vật trước khi mở ra ngoài ở đầu dương vật. Ở phụ nữ, niệu đạo dài khoảng 4cm và mở ra ngoài ngay phía trên cửa âm đạo.
Niệu đạo gồm các biểu mô đường niệu đạo. Ở cả nam và nữ có một số tuyến nằm dọc theo chiều dài niệu đạo. Một mạng lưới hỗ trợ gồm mô liên kết, sợi chun, sợi cơ và mạch máu bao quanh niệu đạo.
Có nhiều loại ung thư khác nhau bắt nguồn từ các tế bào dòng niệu đạo. Những bệnh ung thư được đặt tên theo các tế bào trở thành ác tính (tế bào bị ung thư): Ung thư tế bào biểu mô lát tầng là phổ biến nhất. Nó hình thành trong các tế bào ở một phần niệu đạo gần bàng quang của phụ nữ, và trong niêm mạc của niệu đạo dương vật ở nam giới.
Ung thư tế bào biểu mô chuyển tiếp hình thành ở khu vực gần đường mở vào niệu đạo ở phụ nữ, và ở phần niệu đạo đi qua tuyến tiền liệt ở nam giới. Ung thư biểu mô tuyến hình thành trong các tuyến dọc niệu đạo ở cả 2 giới.
Nguyên nhân do đâu?
Theo các nhà nghiên cứu nguyên nhân chính xác ung thư niệu đạo hiện nay vẫn chưa được biết. Tuy nhiên có những yếu tố nguy cơ sau đây được chỉ ra có liên quan nhiều đến tình trạng ung thư niệu đạo đó là: tiền căn ung thư bàng quang, ung thư niệu đạo đã được điều trị; nhiễm virus HPV; có điều kiện cho viêm và nhiễm trùng mãn tính như bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs), nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs); những người trên 60 tuổi; phụ nữ da trắng… dễ mắc ung thư niệu đạo hơn.
Các dấu hiệu nhận biết
Trong giai đoạn đầu thường có những triệu chứng ít liên quan đến ung thư niệu đạo. Khi ung thư đã phát triển, một số bệnh nhân có thể nhận thấy một khối u hoặc sự tăng kích thước niệu đạo bất thường. Những người khác có thể thấy đau hoặc tiểu máu. Nếu khối u lớn sẽ thu hẹp đường kính niệu đạo, dẫn đến bệnh nhân phải đi tiểu nhiều, gặp khó khăn khi đi tiểu (dòng chảy yếu hoặc bị gián đoạn), chảy máu từ niệu đạo…
Vì vậy khi có các biểu hiện bất thường như tiểu khó, tiểu ra máu, đau… thì đến ngay cơ sở y tế để được khám và tư vấn cụ thể.
Minh Anh
Nổi hạch nách- khi nào là dấu hiệu cảnh báo ung thư?
Bình thường chúng ta hầu như không thể sờ thấy các hạch ở nách. Trong một số trường hợp, hạch nách trở nên tăng kích thước, sưng to và gây đau.
Hạch nách là những hạch bạch huyết nằm tại nách. Ở người bình thường, mỗi bên nách có từ 20 đến 40 hạch. Dịch bạch huyết từ vú, một phần ổ bụng, tay và cổ chảy qua những hạch này rồi nhập vào hệ tuần hoàn. Khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể, chúng sẽ bị dòng bạch huyết đưa tới các hạch. Các tế bào bạch cầu nằm trong hạch bạch huyết sẽ tấn công và tiêu diệt các tác nhân gây bệnh. Nói cách khác, hạch bạch huyết có tác dụng như một hàng rào bảo vệ cơ thể.
Một số trẻ nhỏ sau khi tiêm vaccine BCG từ vài tuần đến vài tháng có thể xuất hiện hạch nách bên trái (tương ứng với bên tiêm phòng). Thông thường những hạch này ít gây đau, sốt, không mưng mủ và sẽ tự khỏi. Một số ít hạch phản ứng sưng to, tấy đỏ, có lúc chảy mủ khiến trẻ sốt, đau và quấy khóc nhiều.
Ngoài ra, viêm nhiễm, nhiễm trùng cũng là nguyên nhân thường gặp nhất gây nổi hạch. Tình trạng viêm nhiễm, vết thương ngoài da tại nách và những khu vực lân cận như vú, cánh tay, bàn tay, đều có thể khiến hạch nách sưng to và đau, gọi là hạch phản ứng. Thông thường những hạch này sẽ co lại sau khi nguyên nhân nhiễm trùng được điều trị khỏi hẳn. Nếu tình trạng nhiễm trùng kéo dài hoặc điều trị không đúng cách có thể dẫn đến áp xe, bên trong chứa mủ và dịch viêm.
Trong trường hợp nhiễm trùng mạn tính, phổ biến nhất là bệnh lao hạch, những hạch này sẽ không biến mất mà tồn tại dai dẳng và có xu hướng tăng lên về số lượng và kích thước, hạch dính với nhau thành chùm, dính vào tổ chức xung quanh gây hạn chế vận động.
Một số bệnh truyền nhiễm khác cũng có thể là nguyên nhân gây hạch như HIV-AIDS, bệnh Brucella, bệnh mèo cào…
Theo bác sĩ Nguyễn Việt Cường, khoa Khám bệnh, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, đặc biệt, một số bệnh ung thư cũng là nguyên nhân xuất hiện hạch nách: như u lympho ác tính Hodgkin và không Hodgkin, ung thư vú, ung thư hắc tố, bệnh bạch cầu cấp… Các hạch tăng kích thước nhưng ít đau, đôi khi kèm theo mệt mỏi kéo dài, sốt không rõ nguyên nhân, vã mồ hôi về đêm, sút cân, có khi tự sờ thấy khối bất thường tại vú… Những triệu chứng này không phải lúc nào cũng xuất hiện rõ ràng và điển hình.
Để xác định một hạch nách có tính chất ác tính hay không, người ta thường dùng xét nghiệm chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (FNA) để lấy một số mẫu tế bào và quan sát dưới kính hiển vi, hoặc sinh thiết hạch làm giải phẫu bệnh.
Triệu chứng nổi hạch nách bao gồm cả nguyên nhân lành tính và ác tính, do đó khi xuất hiện nổi hạch nách sưng đau, hoặc tồn tại trong thời gian dài không biến mất, bạn cần đến các cơ sở chuyên khoa có uy tín để được chẩn đoán nguyên nhân và điều trị kịp thời.
Hà An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét