Những thành phố ấn tượng dưới lòng đất
Những lối vào ẩn giấu, những đường hầm cổ đại và lịch sử phức tạp ẩn dưới bề mặt trái đất, chứa đầy những câu chuyện về một cuộc đời mà ít người biết đến, và là điều mà các thành phố nằm dưới lòng đất lưu giữ và thu hút du khách ghé thăm trên thế giới.
Cappadocia (Thổ Nhĩ Kỳ)
Nằm ở miền trung Thổ Nhĩ Kỳ, vùng Cappadocia là nơi có 36 thành phố dưới lòng đất, ở độ sâu khoảng 85 m, Derinkuyu là nơi sâu nhất. Được tạo thành từ bảy tầng ngầm, thành phố này từng là nơi ở của 20.000 người.
Thành phố có mọi thứ cho một nền văn minh, bao gồm cửa hàng, khu sinh hoạt, trường học, trục thông gió, giếng, nhà bếp, máy ép dầu, nhà tắm, kho chứa và thậm chí cả nhà máy rượu thô sơ. Thành phố giống như mê cung này có từ khoảng thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên và là một phòng thủ đáng gờm chống lại các cuộc tấn công và xâm lược.
Trong trường hợp có bất kỳ mối đe dọa nào, mỗi tầng của thành phố có thể được phong tỏa bằng cách sử dụng những cánh cửa đá nguyên khối. Mặc dù Derinkuyu là nơi có nhà thờ thánh giá duy nhất, nhưng theo ước tính, có khoảng 150 nhà thờ và một số tu viện ở Cappadocia.
Thành phố được phát hiện vào năm 1963, khi một người đàn ông địa phương tình cờ tìm thấy một số đường hầm trong khi sửa chữa nhà mình. Hai năm sau, nơi này được mở cửa cho công chúng.
Matmata (Tunisia)
Nằm ở phía Nam Tunisia là một thành phố nhỏ được tạo thành từ các tòa nhà gọi là "troglodyte", hay cấu trúc "người ở trong hang động". Hơn 2.000 cư dân đã từng sống ở đó.
Các tòa nhà được tạo ra bằng cách đào một cái hố lớn và khoét những bức tường hang động nhân tạo để làm không gian sống. Mặc dù khu phức hợp dưới lòng đất này chỉ mới được phát hiện lại vào năm 1967, nhưng nó đã trở nên khá nổi tiếng.
Khách sạn Sidi Driss của Matmata được sử dụng trong “Star Wars: A New Hope” làm ngôi nhà thời thơ ấu của Luke Skywalker trên Tatooine. Thành phố ngầm cũng được giới thiệu trong “Attack of the Clones”.
Petra (Jordan)
Một thành phố caravan cổ đại nằm ẩn mình ở vùng núi phía nam Jordan, Petra có thể đã từng là nơi sinh sống của 40.000 người vào thời kỳ đỉnh cao khoảng 2.000 năm trước. Người Nabataeans cổ đại đã đục đẽo những sườn đồi bằng đá sa thạch thành một bộ sưu tập ấn tượng gồm các căn phòng, lăng mộ, hội trường và đền thờ.
Một trong những tác phẩm chạm khắc tinh tế nhất là Al-Khazneh, hay “Kho bạc”, có mặt tiền trang trí cao tới 40 m so với mặt đá. Petra cũng được biết đến trong bộ phim “Indiana Jones và cuộc Thập tự chinh cuối cùng”.
Ngôi nhà dưới lòng đất đã bị bỏ hoang vào khoảng thế kỷ thứ 7 CN, nhưng cho đến những năm 1800 mới được người châu Âu phát hiện ra. Các nhà khai quật tin rằng phần lớn tàn tích của Petra có thể vẫn ẩn náu dưới lòng đất.
Coober Pedy (Australia)
Thị trấn nhỏ, nằm dưới lòng đất ở vùng hẻo lánh Nam Australia, được mệnh danh là "thủ đô opal của thế giới", là nơi sinh sống của khoảng 1.600 cư dân. Các mỏ đào và hầm mỏ tồn tại cùng với các ngôi nhà, cửa hàng, nhà hàng, khách sạn, bảo tàng, nhà thờ, sòng bạc, cửa hàng quà tặng và thậm chí là một quán rượu địa phương.
Ngoài các mỏ opal, những ngôi nhà của Coober Pedy được xây dựng dưới lòng đất để thoát khỏi cái nóng như thiêu đốt và để trốn khỏi những con dingo đi lang thang trong khu vực.
Thị trấn này là nơi sản xuất hơn 80% opal trên thế giới và được coi là một nơi ấm cúng và thân thiện để sống.
Matera (Italia)
Sassi di Matera, có nghĩa là "những viên đá của Matera," là khu vực sinh sống trong hang động thời tiền sử ở thành phố Matera, miền nam nước Ý. Khu dân cư dưới lòng đất là một trong những khu định cư đầu tiên của Ý, xuất hiện sớm nhất vào năm 10.000 trước Công nguyên.
Những ngôi nhà, như bản sao lịch sử này cho thấy, được đào vào chính những tảng đá vôi. Một điều khá ngạc nhiên là mọi người vẫn sống trong các hang động trống trải vào thế kỷ 20 - sống không có các tiện nghi và rất ít được tiếp cận với ánh nắng mặt trời.
Chẳng bao lâu, mức độ ánh sáng thấp và nồng độ dịch bệnh cao bắt đầu tạo ra những điều kiện giống như những khu ổ chuột, và những người dân phải vật lộn trong cảnh nghèo đói.
Từ năm 1953 đến năm 1968, những người sống trong hang động đã được chuyển đến nhà ở hiện đại, nhưng sự gia tăng đột biến về du lịch gần đây và sự phát triển mạnh mẽ của cộng đồng nghệ thuật của Matera, đã dẫn đến việc khai hoang vùng đất này.
Thành phố ngầm Bắc Kinh (Trung Quốc)
Năm 1969, cựu lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông đã ra lệnh xây dựng các boongke dưới quyền của Bắc Kinh trong trường hợp thành phố bị đánh bom, dẫn đến một không gian sâu đến 30 km bên dưới thành phố. Nó được trang bị với những tiện nghi cơ bản và phù phiếm như nhà cửa, trường học, bệnh viện, kho thóc, rạp chiếu phim sức chứa 1.000 người và thậm chí cả sân trượt patin.
Vì chủ yếu để phòng thủ, có tin đồn rằng mỗi ngôi nhà đều có cửa bẫy để người dân có thể đến trung tâm an toàn trong trường hợp bị tấn công.
Thường được gọi là "Vạn Lý Trường Thành trong lòng đất", mạng lưới dài có gần 100 lối vào ẩn và địa điểm được đào bằng tay được cho là có khả năng bảo vệ khoảng 1 triệu người trong tối đa 4 tháng.
May mắn thay, không bao giờ cần đến hầm trú ẩn khổng lồ dưới lòng đất này, nhưng những đường hầm mục nát của nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay, cùng những cư dân sống bất hợp pháp ở đó do chi phí thuê nhà ở thành phố mặt đất tăng cao.
Hầu hết các lối vào hiện đã bị phong tỏa, nhưng thành phố ẩn bên dưới những ngôi nhà, con đường và doanh nghiệp đã được mở cửa một thời gian ngắn như một điểm thu hút khách du lịch vào đầu những năm 2000.
Naours (Pháp)
Hai dặm đường hầm và hơn 300 căn phòng nhân tạo nằm cách cao nguyên rừng ở miền bắc nước Pháp khoảng 30 m.
Địa điểm này được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ ba CN như một phần của một mỏ đá La Mã, nhưng sau đó nó được mở rộng thành một ngôi làng dưới lòng đất sau khi người dân địa phương bắt đầu sử dụng nó như một nơi ẩn náu trong các cuộc chiến tranh thời Trung Cổ.
Vào thời kỳ đỉnh cao, Naours có đủ chỗ cho 3.000 cư dân và có thể cung cấp nhiều tiện nghi như nhà nguyện, chuồng ngựa, giếng và tiệm bánh. Các hang động đã bị phong tỏa trong nhiều thập kỷ và được mở cửa trở lại vào thế kỷ 19 như một điểm thu hút khách du lịch.
B.Phúc (theo Insider)
Báu
Một vật dụng kỳ lạ được người La Mã cổ đại dùng để trang hoàng những sảnh tiệc xa hoa đã được khai quật tại Tây Ban Nha.
Theo Acient Origis, đó là một chiếc đèn chùm hoàn toàn giống những chiếc đang được sử dụng trong thời hiện đại về cấu trúc cơ bản. Khác biệt duy nhất là thay vì hoạt động bằng điện, nó chạy bằng dầu. Nhưng công nghệ đó đã đủ gây sốc vì hiện đại hơn nhiều những chiếc đèn chùm vài trăm năm trước, vốn chỉ là giá đỡ hàng chục ngọn nến.
Chiếc đèn chùm cổ đại dù bị gãy vài đoạn nhưng vẫn giữ được cấu trúc cơ bản - Ảnh: Bảo tàng Elda
Hiện vật được lưu giữ và nghiên cứu bởi Bảo tàng Elda ở Alicante (Tây Ban Nha). Theo các nhà khoa học, chiếc đèn chùm kỳ lạ này được khai quật tại tàn tích của một khu định cư La Mã cổ đại, trù phú Ibera - La Mã, nay là địa điểm khảo cổ El Monasti thuộc Thung lũng Elda (Tây Ban Nha). Kết quả giám định cho thấy chiếc đèn đã 2.000 năm tuổi.
Báu vật hiếm thấy được làm bằng gốm, là một chiếc vòng rỗng ruột đường kính nửa mét với 32 họng đèn. Dầu được đổ vào bên trong đèn để thắp sáng.
Theo Daily Mail, đây là chiếc đèn chùm lâu đời nhất thuộc loại này từng được phát hiện, và trong tình trạng cực kỳ tốt. Dù bằng gốm nhưng may mắn nó không bị vỡ nát. Đa số các họng đèn đều đã bị gãy nhưng vẫn để lại 1 họng hoàn toàn nguyên vẹn, và một số họng bị gãy nằm ngay bên cạnh, giúp các nhà khảo cổ biết nó từng như thế nào.
Tại địa điểm khai quật El Monasti, nhiều tàn tích của người La Mã đã được khai quật trước đó, bao gồm một cầu thang tuyệt đẹp và những lò nung 2.000 năm tuổi, bằng chứng của hoạt động công nghiệp sơ khai.
Thu Anh
Tòa nhà lơ lửng giữa vách núi cao 774 mét ở Italia.
Santuario Madonna della Corona được xây dựng chênh vênh giữa vách núi Baldo cao khoảng 774 mét ở Italia.
Tòa nhà lơ lửng giữa vách núi cao 774 mét
Xây dựng các công trình sát vách đá luôn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm nhất định. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau chúng vẫn tồn tại qua hàng thập kỷ và trở thành điểm tham quan hút du khách.
Santuario Madonna della Corona là một tòa nhà nép mình bên vách núi cheo leo ở độ cao 774 mét, nhìn ra thung lũng sông Adige, Italia.
Công trình kiến trúc này là một nhà thờ, địa điểm hành hương thu hút khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Nhiều người lựa chọn vị trí tuyệt đẹp như một nơi để chiêm ngưỡng và cầu nguyện trong sự tĩnh lặng suốt 1.000 năm qua.
Vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên, tòa nhà ẩn hiện giữa cây cối xanh tươi, núi cao bao quanh đem lại cho du khách cảm giác thư thái và yên bình.
Toàn cảnh tòa nhà khi nhìn từ trên cao
Tòa nhà được xây dựng trên một thềm đá mỏng trên núi Baldo, gần hồ Garda. Lịch sử của Santuario Madonna della Corona có từ hơn 1.000 năm trước, địa điểm này ban đầu là nơi các tu sĩ liên quan với Tu viện St Zeno ở Verona thường xuyên lui tới, những người luôn tìm kiếm sự cô độc trong thiên nhiên để suy ngẫm và cầu nguyện.
Công trình đã trải qua nhiều lần cải tạo và phục hồi. Mỗi lần xây sửa khá khó khăn vì những người thợ địa phương phải vượt qua con đường nhỏ hẹp bên vách núi mới đến được vị trí. Năm 1530, công trình sớm nhất được khánh thành. Đến năm 1625, tòa nhà được mở rộng, xây dựng cao hơn vị trí hiện có đó là 4 mét.
Sau đó, mặt tiền xây dựng trang trí theo phong cách Gothic như hiện tại đã được thêm vào tòa nhà từ năm 1899. Nó được trang trí bằng đá cẩm thạch từ Sant'Ambrogio, một thị trấn nhỏ ở thung lũng Valpolicella.
Khu phức hợp tồn tại đến thế kỷ 20 và vào những năm 1970, toàn bộ công trình đã được trùng tu. Nhìn từ trên cao, toàn bộ công trình kiến trúc như đang nằm lơ lửng giữa không trung, bất chấp mọi định luật trọng lực.
Ngày nay, tòa nhà nép mình trong những vách đá mở cửa quanh năm đón hàng nghìn du khách, những người tìm kiếm sự bình yên và thư thái giữa vẻ đẹp của thiên nhiên và lịch sử nghệ thuật.
Những người khách du lịch có thể đến Santuario Madonna della Corona bằng cách đi bộ khoảng 2 giờ đồng hồ từ thị trấn Brentino, hoặc có thể lái xe đến thị trấn Spiazzi rồi đi bộ lên con đường dài một km.
Hoàng Dung (lược dịch)
vật 2.000 năm từ thành cổ La Mã: gây sốc vì quá... hiện đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét