Bồ Đào Nha là dân tộc của những người đi biển. Hơn thế nữa, từ xưa, họ là những người chịu bỏ xứ đi tha hương.
Lisboa là cảng biển thiên nhiên duy nhất của bán đảo Iberia, từ trước công nguyên đã là một trung tâm chính trị và kinh tế. Lisboa nằm ngay trên cửa biển, hòa nước ngọt của sông Tejo vào nước mặn của Đại Tây Dương, mênh mông một màu nước, khơi gợi lòng viễn du của một dân tộc sẵn sàng lên đường. Thực vậy, kể từ thế kỷ thứ 15, khi tài đi biển của người Bồ Đào Nha lên đến đỉnh cao, quốc gia này bành trướng thành cường quốc số một ở Châu Âu, chiếm lĩnh nhiều thuộc địa ở Brazil, Châu Phi, Ả-rập, Ấn Độ và Trung Quốc.
. . .
Năm 1511 thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt đầu nhắm đến Trung Quốc và Nhật Bản. Họ vòng từ miền nam Ấn Độ, đi đường biển dọc theo miền Trung Việt Nam để lên đảo Macau.
Nhà truyền giáo đến với cộng đồng bằng thuyền ở Việt Nam xưa |
Hẳn họ đã dừng chân tại Hội An để buôn bán và tiếp tế lương thực, nên năm 1524 họ dựng một tấm bia đá ở cù lao Chàm. Song song, các nhà truyền giáo lần lượt đến Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Trong những năm cuối của thế kỷ thứ 16 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha của hai dòng thánh Francisco và Agustino đến Việt Nam, nhưng cuối cùng bỏ cuộc.
Đầu thế kỷ thứ 17 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lại đến Việt Nam một lần nữa và lần này họ thành công. Dòng Tên* chính thức được thành lập ở Đàng Trong năm 1615. Đàng Ngoài năm 1627. Trong giới giáo sĩ dòng Tên người Bồ có một nhân vật xuất sắc, đóng một vai trò lịch sử trong nền văn hóa Việt Nam, đó là Francisco de Pina. Pina sinh năm 1585, đến Macau năm 1613, đặc biệt rất giỏi tiếng Nhật. Năm 1617 ông đến Đàng Trong truyền giáo và bắt đầu dịch một số văn bản của Ki Tô giáo ra tiếng Nôm, một thứ chữ Hán được bản địa hóa.. Thế nhưng Pina nhận thấy các nhà truyền giáo đồng nghiệp có một khó khăn trầm trọng , đó là họ không sao học được chữ Nôm. Chàng linh mục trẻ tuổi Pina thấy chữ Nôm không thể là phương tiện giao tiếp với người bản xứ, ông nghĩ ra một cách đơn giản. Ông thử lắng nghe người Việt phát âm ra sao rồi dùng mẫu tự la tinh để diễn tả âm tiết theo cách mà tiếng Bồ Đào Nha thường làm.Đó là thời điểm khai sinh của chữ quốc ngữ chúng ta ngày nay. Theo lời xác nhận của chính Pina, kể từ năm 1622, ông đã xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự la tinh cho hợp với thanh điệu và lối phát âm của tiếng nói Việt Nam. Pina cũng soạn cả một tập văn phạm thô sơ cho loại chữ viết mới mẻ này. Có lẽ trên thế giới không có nơi nào có một thứ chữ viết được hình thành trong điều kiện như thế.
Năm 1624 Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo khác. Trong số người đến học với ông có hai vị quan trọng, một người đã lớn tuổi là António de Fontes (1569 -?), sinh tại Lisboa. Vị kia chính là Alexandre de Rhodes (1591-1660), sinh tại Avignon, Pháp.Hai vị này lãnh hai trọng trách, de Fontes là trụ cột cho giáo xứ truyền giáo ở Đàng Trong, còn de Rhodes sẽ ra Đàng Ngoài vào năm 1626, lúc đó trong thời kỳ của Chúa Trịnh Tráng. Một ngày nọ trong tháng12 năm 1625, một chiếc tàu của Bồ Đào Nha bỏ neo ở vịnh Đà Nẵng, Pina lên tàu để mang hàng hóa vào bờ. Khi đến bờ chẳng may thuyền chìm, Pina chết tại đó, ông chỉ sống được 40 tuổi.
Sau cái chết bi thảm của Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục xây dựng chữ quốc ngữ mà hai nhân vật có công nhất chính là hai người Bồ, Gaspar de Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647). Còn Alexandre de Rhodes thì bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, phải đi Macau. Mười năm sau, năm 1640 de Rhodes trở lại Đàng Trong và đến năm 1645 bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. De Rhodes trở về La Mã và năm 1651 ông cho xuất bản tập tự điển Việt-Bồ Đào Nha-La Tinh (Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum).
Trong các đời sau, nhiều người tôn Alexandre de Rhodes là người sáng tạo chữ quốc ngữ nhưng thực ra đó là công của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, mà người đầu tiên phải là Francisco de Pina.
Một tình cờ của lịch sử đã đưa các vị giáo sĩ Bồ Đào Nha phát minh ra một loại chữ viết cho cả một dân tộc xa lạ, trong đó họ buộc phải dùng mẫu tự và âm tiết của ngôn ngữ mình để diễn tả một tiếng nói khác, vốn mang đầy thanh âm trầm bổng như tiếng chim. Mục đích ban đầu của chữ quốc ngữ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với cộng đồng tôn giáo của mình bằng chữ viết. Về sau, khi các nhà cai trị người Pháp đến Việt Nam, họ cũng không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm. Giải pháp thuận tiện của người Pháp là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng chữ quốc ngữ và có lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes được nêu bật.
Từ 1930 chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của người Việt.
Chú thích:* Bài viết trích từ chương Những Người Đi Biển, trong tập bút ký "Đường Xa Nắng Mới" của TS Nguyễn Tường Bách, tên bài viết do blog tự đặt.
¤¤¤
CHỮ QUỐC NGỮ
Nhân kỷ niệm 85 năm bãi bỏ chữ Nho (1919) và
80 năm (1924) quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy
tại cấp tiểu học Việt Nam
(1882 - 1936)
(1591 - 1660)
Chữ Hán từng được dùng ở Việt Nam trong vòng một ngàn năm mãi đến tận đầu thế kỷ thứ 20.
Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630). Ông là người có công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng Việt (nhiều tác giả gọi là La-tinh hóa. Thực ra mẫu tự chữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ La-tinh).
Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. trong việc La-mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản Bài giảng giáo lý Tám ngày đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome.
*** Hệ thống chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La-mã này được chúng ta ngày nay gọi là chữ quốc ngữ (chữ viết của quốc gia)
***Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1882 tại Hà Nội cái năm thành Hà Nội thất thủ vào tay quân Pháp do đại tá Henri Rivière chỉ huy. Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn. Gia đình Nguyễn Văn Vĩnh nghèo nên không có tiền cho con cái đi học. Lên tám tuổi, cậu Vĩnh đã phải đi làm để kiếm sống. Công việc của cậu lúc đó là làm thằng nhỏ kéo quạt để làm mát cho một lớp đào tạo thông ngôn do người Pháp mở ở đình Yên phụ - Hà Nội.
Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng. Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và còn trả lời được các câu hỏi của thày giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong lớp còn đương lúng túng.
Thầy giáo người Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng giúp tiền cho cậu vào học chính thức.
Năm 14 tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa học và trở thành một thông dịch viên xuất sắc.
Sau đó ông được bổ làm trợ lý cho công sứ Pháp tỉnh Bắc Ninh. Năm 1906, lúc ông 24 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi sang dự triển lãm tại Marseilles. Tại đây, ông được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo chí. Ông còn là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền Pháp.
Trở về Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan chức và bắt đầu làm báo tự do.
Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ.
Năm 1913 ông xuất bản tờ Đông dương Tạp chí để dạy dân Việt viết văn bằng quốc ngữ.
Ông là người đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ các tác phẩm của các đại văn hào Pháp như Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas, La Fontaine, Molière, v.v. và cũng là người đầu tiên dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp.
Bản dịch Kiều của ông Vĩnh rất đặc sắc, vì ông không chỉ dịch cả câu mà còn dịch nghĩa từng chữ và kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó - một điều chỉ có những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam (bằng chữ Nôm),Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có thể làm được.
Sự cố gắng và sức làm việc phi thường của ông Vĩnh đã góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân Việt, và đẩy xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ quốc ngữ.
Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương - Hội - Đình) ở Bắc Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt.
Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin ký quyết định đưa chữ Quốc Ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học.
Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt – La - Bồ của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoạn tuyệt với chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ quốc ngữ.
Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng nghề báo của mình. Ông là người luôn lên tiếng phản đối chính sách hà khắc của Pháp đối với thuộc địa, là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ chối huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và cũng là người đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh.
Vì thế chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương chẳng ưa gì ông. Tòa báo của ông vỡ nợ. Gia sản của ông bị tịch biên. Ông bỏ đi đào vàng ở Lào và mất ở đó năm 1936 vì sốt rét.
Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc mộc trên một dòng sông ở Sepole.
Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một quyển sổ ghi chép: Ông đang viết dở thiên ký sự bằng tiếng Pháp “Một tháng với những người tìm vàng”. Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến ga Hàng Cỏ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự yên lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn ông.
Con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của Mình đã góp phần làm cho chữ quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân Việt.
---Tôi đã vẽ bức tranh Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh với lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam – Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.
Lời cảm ơn:
Tác giả bài viết này biết ơn thân sinh của mình – nhà giáo Nguyễn Đình Nam, người đầu tiên kể cho tác giả về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh từ khi tác giả còn là học sinh tiểu học, khi sách giáo khoa chính thống còn gọi Alexandre Rhodes là gián điệp còn Nguyễn Văn Vĩnh là bồi bút của Pháp.
Tác giả xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Kỳ - con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh, và ông Nguyên Lân Bình - cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh vì những câu chuyện xúc động về cuộc sống và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh cũng như của gia tộc cụ.
Tác giả xin cảm ơn thày Trí - cháu ngoại cụ Nguyễn Văn Vĩnh , đồng thời từng là thày dạy toán của tác giả khi tác giả là học sinh trung học.
Nguyễn Đình Đăng
Tokyo, 10/11/2004
Vì sao sau thời Càn Long, khả năng sinh người nối dõi của các hoàng đế nhà Thanh đều suy giảm, thậm chí 3 vị vua cuối cùng đều tuyệt tự?
Dù trong Tử Cấm Thành có hàng nghìn phi tần mỹ nữ nhưng liên tiếp 3 vị hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh đều không có con.
Khi nhà Thanh mới bắt đầu cho đến thời Khang - Càn thịnh thế, các hoàng đế có rất nhiều con cháu. Chẳng hạn, vua Hoàng Thái Cực có 11 con trai, Khang Hy có 35 con trai, Ung Chính có 10, Càn Long có 17 người con, nhưng đến thời Gia Khánh có 5 người con, Hàm Phong có 1 con trai, còn Tông Chi, Quang Tự và Phổ Nghi đều không có con.
Ba hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh đều tuyệt tự
Đầu tiên phải kể đến hoàng đế Đồng Trị qua đời khi mới tròn 21 tuổi. Nhiều tin đồn cho rằng hoàng hậu của ông là A Lỗ Đặc thị đã mang thai nhưng bị Từ Hy ép chết. Thế nhưng, đây chỉ là truyền thuyết. Song chưa có bất cứ bằng chứng nào được tìm thấy trong các bộ chính sử.
Thực tế, hôn lễ của Đồng Trị với hoàng hậu A Lỗ Đặc thị được cử hành vào năm Đồng Trị thứ 11, tức năm 1872. Đồng Trị chết vào năm thứ 13, tức năm 1875. Nếu tính từ ngày có hoàng hậu cho tới khi chết, Đồng Trị cũng có hơn 2 năm chung sống với các phi tần và mỹ nữ trong hậu cung. Tuy nhiên, cho tận tới khi Đồng Trị chết vẫn không có bất cứ ghi chép nào về con cái của vị vua này.
Sau khi Đồng Trị chết, Quang Tự được đưa lên ngôi. Mặc dù có một hoàng hậu, hai quý phi và hàng ngàn cung nữ xinh đẹp ở mọi lứa tuổi nhưng vua Quang Tự cũng không có con.
Vua Quang Tự kết hôn vào năm Quang Tự thứ 14 với Long Dụ Hoàng hậu. Tới năm Quang Tự thứ 24 thì bị Từ Hy giam cầm ở Doanh Đài, tức là thời gian kết hôn kéo dài 10 năm.
Song, do bị gượng ép kết hôn với chị họ nên vua Quang Tự luôn bất mãn, gượng ép và thậm chí không thể động phòng. Thậm chí có giai thoại còn truyền lại rằng, ngay trong đêm tân hôn, Quang Tự vì quá bức bối và đau lòng nên đã sà vào lòng Long Dụ khóc lớn mà nói rằng:
"Tỷ tỷ, trẫm vĩnh viễn kính trọng người, thế nhưng người nhìn xem, trẫm bây giờ thật khó xử biết bao…".
Vua Quang Tự khi đó luôn lấy lý do có bệnh trong người để xa lánh Hoàng hậu. Ngược lại, ông có tình cảm với Trân Phi nên luôn sủng ái nàng đặc biệt. Trong nhiều cuốn sử, cuộc sống hôn nhân giữa Quang Tự và Trân Phi rất hạnh phúc, tiếc là Trân phi cũng không giúp Quang Tự sinh được con nối dõi.
Năm 1898, sau chính biến Mậu Tuất, Quang Tự bị Từ Hy giam cầm ở Doanh Đài trong suốt 10 năm cho tới tận khi chết. Trong thời gian này hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị cũng bị bắt phải đi theo để hầu hạ Quang Tự. Song điều bất hạnh, sau 10 năm bị giam ở Doanh Đài với cuộc sống thiếu ăn, thiếu mặc, năm 38 tuổi vua Quang Tự chết mà không có con.
Hoàng đế Phổ Nghi, người kế thừa ngai vàng của Quang Tự cũng vậy. Ông lên ngôi từ khi hai tuổi và chết vào năm 61 tuổi. Ông kết hôn với tổng cộng 5 người vợ nhưng vị hoàng đế cuối cùng của triều Thanh cũng không hề có con nối dõi.
Điều gì khiến các đời vua cuối nhà Thanh không thể có con?
Rõ ràng là sau thời vua Càn Long, khả năng sinh sản của các hoàng đế giảm đáng kể. Vậy lý do là gì?
Hôn nhân cận huyết
Nguyên nhân đầu tiên khiến các hoàng đế nhà Thanh ngày càng có tỷ lệ sinh thấp là do hôn nhân cận huyết. Theo đó, để duy trì huyết thống cao quý của hoàng tộc Mãn Châu, con cái trong hoàng tộc thường kết hôn với anh em họ và nhiều thê thiếp được chọn cũng là anh em họ. Từ quan điểm khoa học, hôn nhân cận huyết thống chắc chắn không có lợi cho thuyết ưu sinh.
Vào thời cổ đại, khái niệm ưu sinh chưa được biết đến. Người ta tin rằng nếu anh em họ, cô, chú hoặc anh họ kết hôn thì họ được coi là có quan hệ họ hàng gần gũi hơn. Hôn nhân cận huyết phổ biến hơn trong các gia đình hoàng gia. Họ tin rằng những người cùng huyết thống có dòng máu thuần khiết và cao quý hơn nên rất xứng đôi và họ cũng có liên quan đến lợi ích chính trị. Vì vậy, nhiều hoàng đế là sản phẩm của hôn nhân cận huyết.
Kết hôn từ quá sớm
Đây cũng chính là nguyên nhân khiến khả năng sinh sản của các hoàng đế nhà Thanh ngày càng kém. Hầu hết họ kết hôn quá sớm và có quá nhiều thê thiếp nên dễ dàng bị hao hụt sinh lực.
Vua Phổ Nghi, trong cuốn hồi ký của mình, viết: "Lúc Hoàng đế Phổ Nghi mới 10 tuổi, để tránh hầu hạ vua, các thái giám tối nào cũng đẩy cung nữ vào phục vụ ông. Hôm sau thức dậy, tôi hoa mắt chóng mặt, nhìn mặt trời và mọi thứ đều ra một màu vàng ệch". Cũng từ những dòng hồi ký này, mà các nhà sử học rằng nguyên nhân khiến Phổ Nghi không có con nối dõi là vì ông ta mắc chứng bất lực.
Lối sống sa đọa
Ngoài ảnh hưởng từ tập tục hôn nhân, việc tuyệt tự của ba đời hoàng đế cuối cùng còn phụ thuộc vào chính lối sống của ba vị hoàng đế này.
Với vua Đồng Trị, ông là hoàng đế nổi tiếng ăn chơi trác táng và chết vì bệnh giang mai khi mới 21 tuổi.
Vua Quang Tự lại mắc căn bệnh di tinh khá trầm trọng nên không có khả năng sinh con. Căn bệnh này được chính ông thừa nhận vào năm 33 tuổi, tức năm 1907, một năm trước khi chết.
Một y án do chính Quang Tự viết, nêu rõ “... bị di tinh đã gần 20 năm. Mấy năm trước mỗi tháng di tinh mười mấy lần, gần đây mỗi tháng vài ba lần, thường là không mộng mà tinh tự tiết ra, mùa đông càng nghiêm trọng. Eo lưng thường đau nhức, gặp phong hàn thì buốt đầu, ù tai đã gần 10 năm”.
Việc nước nặng nề, cường độ làm việc cao
Đây cũng là một trong những nguyên nhân, bởi vì trong xã hội phong kiến, hoàng đế được coi là ‘trời’, lời của Hoàng đế không ai có thể kháng. Tuy nhiên, muốn trở thành một hoàng đế tốt thì ngày đêm phải đọc tấu chương và phê duyệt. Có rất nhiều việc quân sự quốc gia chờ vua quyết định. Hoàng đế không chỉ có mối bận tâm vô tận mà còn phải luôn cảnh giác với những kẻ âm mưu hãm hại mình, đương nhiên không thể ăn ngon, ngủ ngon và sống một cuộc sống bình yên.
Nguyễn Phúc Hồng Cai Là Ai Mà Có Tới 5 Con, Cháu Đều Làm Vua?
Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845-1876), mang tôn hiệu Kiên Thái Vương, là một hoàng tử của vua Thiệu Trị, đánh dấu bản thân trong lịch sử Việt Nam không chỉ với vai trò là cha của ba vị vua liên tiếp mà còn là ông nội và cụ của các hoàng đế sau này.
Theo nguồn từ trang web chính thức của dòng họ Nguyễn Phúc (nguyenphuoctoc.info), Hồng Cai là cha của ba hoàng đế triều Nguyễn: Kiến Phúc (tức Nguyễn Phúc Ưng Đăng), Hàm Nghi (tức Nguyễn Phúc Ưng Lịch) và Đồng Khánh (tức Nguyễn Phúc Ưng Kỷ). Ông cũng là tổ phụ của vua Khải Định và cố tổ phụ của vua Bảo Đại. Hồng Cai được mô tả là người đức độ, tiết kiệm và tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc. Từ nhỏ, ông đã siêng năng học tập và sau đó tiếp tục việc học cùng với các vương công khác khi sống riêng tại phủ của mình, nắm vững rộng rãi các sách kinh sử.
Các sử sách ghi chép, vua Tự Đức (tên thật là Hồng Nhậm) không có con nối dõi do bị bệnh đậu mùa từ nhỏ. Sau khi lên ngôi, ông nhận nuôi 3 người con của hai em trai ruột mình, trong đó Ưng Chân, con của Thoại Thái Vương, được xem là người thừa kế. Năm 1883, vua Tự Đức qua đời, Ưng Chân tiếp tục ngôi vua với niên hiệu Dục Đức theo di chiếu của Tự Đức, nhưng chỉ sau ba ngày thì băng hà. Sau đó, em út của Tự Đức là Hồng Dật được lên ngôi, niên hiệu là Hiệp Hòa, nhưng cũng không giữ được ngôi lâu. Cuối cùng, các quan phụ chính thời bấy giờ là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã quyết định đưa Ưng Đăng, người con nuôi thứ ba của Tự Đức, lên ngôi, với niên hiệu Kiến Phúc.
Ưng Đăng và Ưng Đường đều là những người con của Kiên Thái Vương, Nguyễn Phúc Hồng Cai, sinh thời đã chứng kiến giai đoạn đầy biến động của đất nước. Đặc biệt, giai đoạn lịch sử được biết đến với cái tên “Tứ nguyệt tam vương”, chỉ quãng thời gian bốn tháng liên tiếp chứng kiến sự thay đổi của ba vị vua – Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc – mỗi người chỉ kịp ngồi lên ngôi vàng trong thời gian ngắn.
Kiến Phúc, sau tám tháng trị vì, đột ngột băng hà trong hoàn cảnh đầy rẫy ẩn số. Hai quan Phụ chính là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường sau đó đã quyết định đưa Ưng Lịch, em cùng cha khác mẹ với Ưng Đường và Ưng Đăng, lên ngôi với danh hiệu Hàm Nghi vào ngày 2 tháng 8 năm 1884. Khi triều đình suy yếu sau ngày kinh thành bị đánh sập (23/5 âm lịch, tức 5/7/1885 dương lịch), Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi vào vùng núi tổ chức kháng chiến chống Pháp, cùng với Thọ Xuân Vương Miên Định, chú ruột của vua Tự Đức, làm quyền nhiếp chính. Đến tháng 9 năm 1885, theo sự kiến nghị của các quan Đại thần và Thái hoàng Thái hậu Từ Dũ, Chính phủ Pháp đã chấp nhận cho Ưng Đường kế nghiệp ngai vàng, với niên hiệu là Đồng Khánh.
Sau khi vua Đồng Khánh mất, ngai vàng được truyền lại cho Hoàng tử Bửu Lân, con trai của vua Dục Đức. Bửu Lân được đăng quang với niên hiệu Thành Thái và trị vì cho đến năm 1908, thời điểm ông bị Pháp lật đổ. Ngai vàng sau đó thuộc về con ông, Vĩnh San, với niên hiệu Duy Tân. Đến năm 1916, sau cuộc nổi dậy không thành công do Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo, vua Duy Tân bị Pháp bắt và đày đi xa. Ngôi vua tiếp tục quay về với dòng họ của vua Đồng Khánh. Hoàng tử Bửu Đảo lên nắm quyền, với danh hiệu Khải Định từ năm 1916 đến 1925, và sau đó là hoàng tử Vĩnh Thụy, lên ngôi với niên hiệu Bảo Đại từ năm 1926 đến 1945.
Câu ca dao ở Huế phản ánh điều này: “Một nhà sinh đặng ba vua/ Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài”, mô tả hoàn cảnh hi hữu của gia đình Kiên Thái Vương, với ba người con trai lần lượt nối ngôi vua. Trong đó, “vua còn” ám chỉ Đồng Khánh, “vua mất” nói về Kiến Phúc, và “vua thua chạy dài” đề cập đến Hàm Nghi.
Trần Thu Thủy (Theo Thời báo Văn học Nghệ thuật) / Danviet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét