Steve đi làm về, vừa thay quần áo xong là Linh kéo tay anh ngồi xuống giường :
- Em muốn nói với anh một chuyện nghiêm chỉnh nè...
Steve vòng tay qua ôm và hôn vợ, làm Linh dãy nảy lên:
- Trời ơi, em đã nói là chuyện nghiêm chỉnh mà.
Steve cãi:
- Anh hôn em, hôn vợ đâu phải là chuyện đùa.
- Thôi được, nghe em hỏi đây: Anh có muốn con mình bị cảm lạnh không? Không chứ gì! Anh có muốn con mình bị sưng phổi không? Không chứ gì! Anh có muốn con mình bị mất ăn, mất ngủ không? Cũng không chứ gì?
Steve kêu lên kinh ngạc:
- Em hôm nay làm sao thế? Em hỏi anh một tràng những câu hỏi khủng khiếp rồi em tự ý trả lời, không chừa cho anh có cơ hội nói một chữ nào.
- Em biết chắc anh sẽ trả lời “không” nên em trả lời giùm anh luôn cho nhanh. Nghe em hỏi tiếp đây, anh có biết là chị Hai em mới bảo lãnh mẹ em qua Mỹ được vài tháng nay không? Biết chứ gì! Anh có biết là mẹ đang ở với gia đình chị Hai ở California không? Biết chứ gì!...
Steve lại kêu trời:
- Em nói những chuyện lung tung, chẳng liên quan gì đến nhau cả!
- Có liên quan đây. Em định bàn với anh là mời mẹ về ở chung với chúng mình, để mẹ trông thằng Eugene, khỏi phải mỗi buổi sáng bồng bế nó đi Day Care. Tội nghiệp!
Steve tròn mắt lên:
- Có nghĩa là mẹ em sẽ ở đây dài lâu?
Linh hạ giọng, dịu dàng để Steve cảm động:
- Mẹ sẽ giúp mình được nhiều việc. Anh thấy rồi đó, con mình mới có 9 tháng tuổi mà nay bị cảm, mai bị ho…Mỗi sáng sớm xách con ra xe đem đi gởi mà em đau lòng quá. Có mẹ ở đây, Eugene sẽ yên ấm ở nhà, sẽ ăn no ngủ kỹ, ngoài ra, mẹ còn trông nom nhà cửa, nấu nướng phụ em được nữa.
Steve ngạc nhiên:
- Có một bà mẹ già làm được những điều ấy sao?
- Em chẳng biết những bà mẹ Mỹ của anh giỏi cỡ nào! Nhưng mẹ em hay các bà mẹ Việt Nam khác đều là thế cả.
Steve chép miệng:
- Điều này rất tốt, nhưng mất sự riêng tư của chúng mình!
Linh năn nỉ:
- Nhà mình rộng thênh thang, mẹ thương em, em thương mẹ và em tin rằng anh cũng sẽ… thương mẹ em luôn.
Thấy Steve chần chừ, Linh tấn công thêm, vì cô biết chồng rất thương con:
- Nhưng vì con mình là trên hết. Mẹ sẽ là người chăm sóc nó tuyệt vời.
Steve trả giá:
- Anh tạm đồng ý. Nếu mẹ ở một thời gian, không thích hợp thì thôi nhé?
Linh vui thích ôm lấy cổ chồng:
- Cám ơn anh, bây giờ anh cứ hôn em đi! Unlimited!
Linh thừa hiểu, người Mỹ thích sự riêng tư, nhất là trong đời sống vợ chồng. Bà mẹ vợ luôn là nhân vật hắc ám, chẳng thằng con rể nào muốn mời tới nhà, nói gì ở chung lâu dài ! Hơn nữa, một bà mẹ vợ không đồng chủng, mới từ Việt Nam qua, chưa gặp gỡ, trò chuyện, thì làm sao mà Steve, một người Mỹ Anglo không e ngại?
Mẹ và chị Hai đều chấp nhận đề nghị của Linh, con Linh còn nhỏ nên cần sự giúp đỡ của mẹ hơn. Và vì Linh lận đận tình duyên, kén chọn mãi, hơn 30 tuổi mới lấy chồng, nên mẹ cũng thương đứa con lận đận hơn.
Linh mua vé máy bay, hôm sau mẹ Linh đã từ California bay đến xứ núi Utah, ngay những ngày đầu mùa Đông giá lạnh.
Hôm bà đến, tuyết rơi trắng xóa, những mái nhà phủ đầy tuyết, và xa xa những dãy núi cũng phủ đầy tuyết trắng làm bà rợn người, chợt tưởng như vừa bị ném vào một cõi hoang vu, xa lạ. May mà có cô con gái ngồi bên cạnh, là điểm tựa duy nhất để bà tin là mình không đi lạc, không bị bỏ rơi. Chứ thằng con rể người Mỹ, và thằng cháu ngoại trông giống bố, mắt xanh, tóc vàng kia coi như… chẳng liên quan gì đến bà.
Về đến nhà, Linh dẫn mẹ đi khắp nhà để chỉ dẫn những điều cần biết về nơi ăn, chốn ở, và những sinh hoạt hàng ngày.
Bắt đầu từ ngày mai, thằng Eugene sẽ ở nhà với bà ngoại.
Sáng sớm hôm sau, hai vợ chồng Linh mở cửa ra đi làm, giữa trời lạnh, tuyết bay ngoài đường, Linh thấy yên lòng vì con mình vẫn đang nằm ngủ êm ấm trong nhà, hơn thế nữa, trong vòng tay chăm sóc, thương yêu của bà ngoại.
Suốt đêm qua, phần vì lạ nhà, phần vì thấp thỏm cho một công việc mới, nên bà không ngủ ngon cho lắm, chỉ còn hai bà cháu ở nhà, bà nằm ngủ tiếp, cho đến khi Eugene tỉnh giấc và khóc, bà tỉnh dậy, thấy đồng hồ chỉ 9 giờ sáng.
Bà thay tã cho nó và đi pha sữa. Nuôi trẻ con ở Mỹ sao mà lắm thứ, lỉnh kỉnh thế! sữa này, nước trái cây này, đồ ăn sẵn trong hũ này… Xứ văn minh, giàu có quá chỉ bày đặt! Hồi xưa, bà nuôi mấy đứa con, có cần những thứ này đâu, mà đứa nào cũng khoẻ mạnh và lớn lên như thổi.
Thằng bé vừa bú bình sữa vừa nhìn bà lạ lẫm, bà cũng có dịp nhìn nó kỹ hơn, nó giống bố, chẳng giống mẹ tí nào, nếu không do chính con gái bà đẻ ra thì bà không tin nó có một nửa dòng máu Việt Nam trong người. Mới hôm qua, bà còn cảm thấy xa lạ nó, mà bây giờ, ôm nó trong tay, nhìn nét mặt bé bỏng, ngây thơ, đang cần bàn tay bà chăm sóc, bà thấy tình máu mủ, ruột thịt, gắn bó với nó biết bao.
Thằng bé đã biết bò, vừa đặt ngồi xuống là nó đã bò thoăn thoắt, nên bà cứ phải để mắt đến cháu luôn, không dám đặt trên giường, sợ nó bò lăn xuống đất.
Để chắc ăn, buổi trưa, bà trải một tấm mền ngay giữa phòng khách cho nó nằm ngủ, bà vừa trông nó, vừa nấu cơm. Bà lấy đồ trong tủ lạnh ra, lấy nồi, lấy chảo, lấy dao, lấy thớt… Mọi động tác đều làm nhẹ nhàng, khe khẽ, thế mà thằng bé tỉnh ngủ quá, bà quay lại đã thấy nó thức và ngồi nhỏm dậy từ lúc nào. Bà vội vàng ra đặt nó nằm xuống, vỗ về cho nó ngủ tiếp, rồi khi bà phi hành tỏi, làm món rau xào, vừa đổ rau vào chảo, kêu “xèo” một tiếng cũng đủ làm Eugene mở mắt, lại ngồi nhỏm dậy, hai mắt mở to trô trố nhìn bà, cứ vài lần nó tỉnh giấc, và bà vỗ về như thế, mới nấu xong một bữa cơm. Thật căng thẳng và hồi hộp, lo bảo vệ giấc ngủ cho thằng cháu mà bà cứ thấp thỏm, rón rén như đang đi ăn trộm!
Nấu cơm xong, tưởng được thoải mái, thì đến lượt cái điện thoại làm phiền giấc ngủ của cháu bà. Tiếng phone ring inh ỏi, nghe thấy tiếng Mỹ là bà cúp luôn, không để phí phạm thêm một phút giây nào cả. Vì mấy tháng sống ở California với cô con gái lớn, bà đã học được kinh nghiệm là có những cú phone, nói tiếng Mỹ chỉ là quảng cáo, không cần nghe làm chi cho mệt, mà dù có nghe, bà cũng chẳng hiểu.
Bà nhìn cái điện thoại như nhìn một đứa cà chớn, đáng ghét, thế mà nó không chừa, lại ring lên lần nữa, làm tim bà giật thót lên. Lại bốc phone, lại nghe tiếng Mỹ, chắc là thằng cha quảng cáo lúc nãy, bà bực mình, quát vào phone một tràng tiếng Việt Nam:
- Này! Tôi nói cho ông biết nhé, đừng có gọi quảng cáo đến nhà này làm cháu tôi mất ngủ. Ông mà gọi đến lần nữa là tôi… cúp máy luôn đấy.
Rồi bà đặt phone cái “kịch” mà vẫn chưa hết bực mình.
Giá như có cái võng đu đưa, thì cháu bà sẽ ngủ say hơn, ngủ lâu hơn, không sợ những tiếng động xung quanh nữa, bà nhìn khắp nhà, không thấy chỗ nào có thể mắc võng được, ở Mỹ coi vậy mà… thiếu tiện nghi. Ở Việt Nam, chỗ nào cũng có thể mắc võng dễ dàng: chân cầu thang, kèo cột, vách tường, hay gốc ổi, gốc mít ngoài sân...v..v…
Cuối cùng cháu bà cũng có một giấc ngủ trưa đầy đủ. Thà nó tỉnh dậy, ngồi chơi, bà còn làm được nhiều việc hơn, bà không phải e dè nữa, làm mạnh tay, nhanh chân, vèo một tí là xong, nhà cửa tươm tất, công việc đâu ra đấy.
Buổi chiều Linh về nhà trước, thấy Eugene được ăn ngủ đầy đủ, tắm táp sạch sẽ, Linh vui lắm, xong cô hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, lúc trưa nay, mẹ có chuyện gì mà bực mình thế? Mẹ gắt ầm trong phone.
Bà ngạc nhiên:
- Sao con biết? Mẹ gắt mấy thằng quảng cáo đấy, cú gọi đầu làm thằng bé thức giấc, mẹ đã cúp vội máy rồi, nó lì lợm gọi thêm lần nữa, mẹ phải quát nó mới thôi.
Linh ôm bụng cười:
- Chồng con đấy, Steve định gọi cho mẹ để nói Hello với mẹ thôi.
Bà cũng cười, bẻn lẻn:
- Gớm, thôi bảo nó đừng bày đặt nói hello làm gì, cứ nghe điện thoại reo lại nói tiếng Mỹ làm mẹ hết cả hồn.
Ngày đầu chưa quen việc, bà thấy mệt mỏi, vất vả quá, vài ngày sau mọi thứ trở nên dễ dàng hơn, bà đã nấu những bữa cơm ngon lành, con rể bà bắt đầu nếm những món nọ món kia, mà có cao sang gì đâu, thịt kho tàu, cá kho tộ, tôm rim, thịt bò áp chảo…canh rau đủ món, thay đổi, làm Steve khám phá ra những cái ngon của đồ ăn Việt Nam, mà Linh chưa hề nấu, phong phú, và đa dạng như mẹ. Đến nỗi Steve đã hỏi Linh:
“Mẹ em trước kia ở Việt nam là chủ nhà hàng hả?”
Anh đâu biết, bà chỉ là một người nội trợ bình thường như bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác.
Cháu bà tên Eugene, cái tên gì mà khó đọc, khó nhớ, bà… đổi quách thành cu Tí cho tiện việc, cái tên Việt Nam nghe êm ái và quen thuộc với bà hơn.
Thằng Cu Tí rặt Mỹ, mắt xanh, tóc vàng như rơm, đã quen và thân bà, vì cả ngày ở bên bà, tối lại ngủ với bà. Trước kia, vợ chồng Linh vẫn để nó ngủ một mình trong phòng, bà thấy tội nghiệp cháu quá. Ai đời, vợ chồng ngủ với nhau, để thằng bé “bơ vơ”.
Thường thường cu Tí rất ngoan, bú xong bình sữa là ngủ ngay, nhưng có khi nó cũng dở chứng như thời tiết, hai mắt cứ mở thao láo không chịu ngủ dù đêm đã khuya. Bà đã phải trổ hết tay nghề của một người đàn bà từng nuôi con mọn, bà bế trên tay, đong đưa, bà ấp trong lòng, vỗ nhẹ vào mông nó. Bà đã trổ hết tài “văn nghệ”, ru à ơi với ca dao, tục ngữ, rồi chuyển sang hát tân nhạc, rồi xuống giọng ngâm thơ nỉ non. Bà đã “xài” hết vốn liếng văn chương của mình mà cu Tí vẫn chưa chịu ngủ, bà nghĩ có lẽ cu Tí chưa “cảm thông” được tiếng Việt Nam, hay nó tưởng bà kể chuyện, nên mải nghe mà… quên ngủ?? Bà không nản chí, bà tin rằng dần dần nó sẽ hiểu tiếng Việt Nam, những bài ru của bà sẽ đưa nó vào giấc ngủ dễ dàng, như ngày xưa bà đã từng ru mẹ nó, và khi nó lớn hơn một tí bà sẽ tập cu Tí ăn cơm với đồ ăn có chất mắm muối Việt Nam. Dù bố cu Tí là Mỹ, nhưng mẹ nó là dân Việt Nam cơ mà, ngay cả bố nó, Steve cũng đang quen dần với các món ăn Việt Nam, ăn bánh cuốn cũng hăng hái chan đầy nước mắm, cái món không thể thiếu trong bữa cơm hàng ngày của người Việt Nam, nhưng đối với hầu hết người Mỹ vẫn là thứ mùi vị “ khó chịu” không dễ dàng gì chấp nhận được.
Thỉnh thoảng bà vẫn nói chuyện tay đôi với con rể mà không cần con gái thông dịch, bà nói tiếng Việt Nam, Steve nói tiếng Anh, lời nói… theo gió bay, vì chẳng ai hiểu ai, nhưng vì nhu cầu bà vẫn cứ nói, còn Steve có hiểu hay không thì… mặc kệ nó.
Mùa Đông đã đi qua, phố núi vẫn tràn trề tuyết trắng trên những đỉnh núi xa xa, và lấp lánh màu trắng bạc khi mặt trời có nắng. Trong không gian vẫn còn hơi lạnh dù mùa Xuân đã về, lá bên đường xanh lại, người ta đã quên mùa Đông để rộn ràng dạo phố, các cửa hàng của “Open Air Mall” tại Salt Lake City tưng bừng đón khách lại qua, kéo dài tới mùa Hè ngắn ngủi, rồi tới mùa Thu, không gian dìu dịu lạ lùng.
Lần đầu tiên trong đời, bà thấy một mùa Thu đúng nghĩa như trong sách vở, thơ văn. Khắp nơi trong thành phố, lá bắt đầu đổi màu, ửng đỏ, ửng vàng từng phần, rồi trở thành đỏ và vàng hàng loạt. Màu lá vàng tươi rói, mơ màng, mà bà tin rằng không một hoạ sĩ nào có thể vẽ nổi cái màu sắc của thiên nhiên thật tuyệt vời ấy. Gió hiu hiu, lá cũng hiu hiu rơi từng chiếc, thế mà dưới những gốc cây chạy dài trên hè phố hay trước sân nhà là cả một thảm lá vàng, đẹp và hoang sơ, tưởng như chưa hề có bước chân người dẫm lên, nên không ai nỡ mang đi, không nỡ quét dọn những chiếc lá thu vàng đó, dù luật của thành phố, đã phát cho cư dân những bao bịch lớn để hốt lá vàng, để mang dấu tích của mùa Thu… đi đổ rác!
Rồi màu đỏ, màu vàng của lá đậm hơn, gió vẫn hiu hiu nhưng làm lá rụng nhiều. Có một hôm, gió thổi mạnh, quần quật trên mái nhà, bên vách nhà, những bước chân của gió như đang nổi cơn thịnh nộ. Khi bà vén cửa sổ nhìn ra ngoài, cả một rừng lá đỏ, lá vàng bay tả tơi theo chiều gió, rồi trời đổ mưa, giông gió thế, mà mưa chỉ lâm râm, hay mưa sợ làm đau thêm những chiếc lá vàng vừa mới lìa cành? Những chiếc lá bay đi và theo mưa nằm bẹp trên đường ướt át. Cành cây trước nhà hôm qua còn nhiều lá vàng, giờ trở nên trơ trụi, lạnh lẽo chìm trong mưa mù, làm bà mủi lòng, thấy cuộc đời phù du. Hình như mùa Xuân mới vừa hôm qua, lá xanh non, mà hôm nay Đông về đã tàn phai!!
Thế là mùa Đông lại về, bà đã ở với vợ chồng Linh được 1 năm, cu Tí đã biết đi, đã biết ăn phở, ăn bún, bà cắt nhỏ từng sợi phở, sợi bún, nâng niu đút cho cháu từng thìa. Bà muốn nó biết ăn và yêu thích những món ăn Việt Nam trước khi biết đến Hamburger, khoai tây chiên hay hot dog.
Khi cu Tí bập bẹ học nói, tiếng đầu tiên nó thốt ra là “Bà”, bằng tiếng Việt Nam, bà sẽ dạy nó uốn lưỡi để nói thêm chữ “ngoại”, thành “bà ngoại” đàng hoàng. Cu Tí cả ngày quấn quýt bên bà, thằng bé khoẻ mạnh, phổng phao hẳn lên, nó không còn bị ốm vặt như thời đi Day care nữa. Bà thích ngắm cháu, lúc nó vui cười hay cả lúc nó hờn dỗi vì gắt ngủ, đói sữa, khóc dãy lên đành đạch, nước mắt, nước mũi nhoèn ra hai bên má, dễ thương như mặt mèo.
Một hôm, bà phải trở về California để dự đám cưới đứa cháu, cũng là dịp thăm lại gia đình cô con gái lớn, con nào bà cũng thương, trước sau gì bà cũng phải về thăm chúng.
Thế là vợ chồng Linh lại phải đem cu Tí đi Day care gởi 1 tháng, coi như bà ngoại đi vacation. Bà đi rồi, nhà cửa trống vắng hẳn ra, công việc bỗng ùn lên làm hai vợ chồng Linh bối rối. Đi làm về Steve lo đón con, Linh lo nấu nướng, rồi tắm rửa cho con, dọn dẹp nhà cửa và bao nhiêu thứ việc lặt vặt khác. Những buổi tối đầu tiên xa bà ngoại, cu Tí khó ngủ, có lẽ nó đang đợi nghe những bài ca dao, tục ngữ, những lời ru à ơi, vời vợi, êm ả của bà, dù cái thằng cu Tí kia đã hiểu gì tiếng Việt Nam.
Steve buồn ra mặt, anh nhớ bà mẹ vợ, người đã thương con, chiều cháu bằng cả một tấm lòng, anh đã hiểu một bà mẹ Việt Nam cần cù, chịu khó và hy sinh vì con cháu thế nào! Chẳng cần ai nói, Steve cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Anh đã có một người vợ tuyệt vời, yêu chồng, thương con, lại có thêm một bà mẹ vợ cũng tuyệt vời. Mới 2 tuần trôi qua, chưa đến hẹn bà mẹ vợ trở về, Steve bồn chồn hơn cả Linh, anh đã sốt ruột gọi phone cho bà, anh ngọng nghịu mãi mới nói được một câu tiếng Việt:
- Mẹ… sẽ... trở.. về… với… chúng…con… không ?
Bên kia đầu dây, bà cũng “vất vả” không kém, lắp ba lắp bắp để nói được vài chữ tiếng Anh:
- OK…I…wi..ll…co..me..ba..ck…
Vẫn cảm thấy chưa nói được hết ý, bà “bổ sung” thêm một tràng tiếng Việt:
- Con yên trí, mẹ thương hai con và thằng cu Tí lắm, mẹ sẽ trở về để sống với các con chứ, mẹ không ở đây một tháng đâu. Mùa Đông đang bắt đầu, mẹ sợ cu Tí mang ra ngoài bị cảm lạnh. Tuần sau mẹ sẽ về con nhé.
Nguyễn thị Thanh Dương
Văn hoá tốt
đẹp
Hishako ngồi
trong một chiếc ghế khá to, chung quanh thân hình mỏng manh, bé tí, của bà bao
nhiêu là gối, chăn, chèn, chắn để những cái xương của bà được bọc êm ái không
chạm vào thành ghế cứng. Bà nhìn qua khung cửa kính, mảnh vườn nhỏ cuối thu
ngoài kia đã bắt đầu trống trải, xơ xác, lá rụng hết rồi. Những cái cành khẳng
khiu vươn ra như những cánh tay gầy không mặc áo, chúng đang chờ mùa đông tới.
Ông
Kentaro chồng bà, ngồi trên một chiếc xe lăn, không xa bà mấy. Tóc ông rụng gần
hết, mấy sợi còn lại trắng như cước dính sát vào da đầu. Cái kính ông đeo trễ
xuống chỏm mũi, ông cũng chẳng cần sửa lại. Ngoài kia có cái gì đáng ngắm đâu
“Mùa thu đã hết” – ông lẩm bẩm trong miệng. Bà không nghe thấy, mà thật ra bà
cũng chẳng để ý, ông nói đến lần thứ ba, bà mới nghe rõ, bà chỉ gật đầu đáp lại.
Mùa thu đã
hết, mùa phơi hồng cũng chấm dứt. Bà mơ màng nhớ lại thời trẻ của hai ông bà.
Chao ôi sao mà đẹp thế. Ông bà có vất vả thật. Hết làm ruộng đến trồng rau, qua
làm rau thì đến đợt phơi hồng. Làm ruộng thì nhà cũng chỉ có ba sào, trồng rau
thì khoảng ba mươi chiếu, hồng thì nhà có năm cây cổ thụ, mỗi cây cho từ hai
trăm tới ba trăm trái. Ông bà có việc làm quanh năm, nhờ thế mới có tiền cho ba
đứa con ăn học. Bà nhớ hồi nhỏ các con cũng phụ với ông bà xếp những trái hồng
đã phơi khô vào thùng để bỏ mối.
Cây Hồng
sai trái – thoibaonhat
Nói đến hồng bà lại nhớ hình ảnh ông lúc còn khỏe, còn trẻ, một ngày ông hái cả ngàn quả hồng và ông luôn luôn nhớ không bao giờ hái hết, phải chừa lại một ít quả trên cây như một niềm tin cần thiết cho mùa thu hoạch năm tới được tốt đẹp, (người Nhật gọi là Kimorigaki) và để cho những chú chim ruồi mejiro có thức ăn trong mùa đông nữa. Bà nhớ là khi hai vợ chồng làm ruộng hay trồng rau, luôn luôn phải để dành một luống không gặt hết lúa, không cắt hết rau cho những con chim, con chuột đồng, con sâu, cái kiến được no lòng. Ngay cả những thân cây khô, những đống củi cũng là nơi trú ẩn cho những sinh vật nhỏ bé như con ong, con sâu, ông bà cũng không bao giờ nỡ đuổi chúng đi.
Cái văn
hóa tốt đẹp này của người Nhật được cả thế giới ngưỡng mộ.
Bây giờ
ông 88 tuổi rồi, bà kém ông 3 tuổi. Cả hai cùng mong manh yếu đuối. Kết quả của
mấy chục năm làm việc đồng áng trong nắng, trong tuyết, bốn bàn tay gầy guộc co
quắp lại. Cả hai ông bà không còn cầm được cái gì cho vững chắc trên tay nữa,
di chuyển cũng trên cái ghế có bánh xe.
Ba người
con lên tỉnh học, lập gia đình rồi ở lại. Họ không thể về quê sống, vì không có
công việc thích hợp với những chuyên môn kiến thức của họ. Họ cũng không mang
ông bà đi được vì nhà cửa ở tỉnh chật hẹp và đắt đỏ. Ông bà vẫn sống trong căn
nhà của sáu mươi năm về trước, ngôi nhà từ hồi ông bà lấy nhau. Các con có sắm
sửa một ít đồ đạc cho tiện nghi đời sống như tủ lạnh và máy giặt, bếp điện. Đấy
là từ mười năm về trước khi ông bà còn tự chăm sóc cho mình được. Bây giờ thì
phải có người để dùng những đồ đạc tiện nghi và văn minh đó.
Con cái những ngày lễ, ngày nghỉ phép thay nhau thỉnh thoảng về thăm, ở một vài ngày rồi đi. Mấy đứa cháu chơi với ông bà vài ngày cũng chán vì nhà và vườn không còn gì hấp dẫn khi không có người săn sóc và ông bà càng ngày càng chậm, đi không vững, nghe không rõ. Ba người con cùng thương cha mẹ nhưng họ không biết làm gì khác hơn. Họ cũng có thuê người mang thức ăn tới, nhưng lại không đủ tiền mướn một người làm tất cả các việc lặt vặt và ở luôn trong nhà. Cuối cùng họ chung nhau tiền mua cho ông bà một anh carebot.
Anh carebot này rất giỏi, anh làm gần như đủ mọi việc, anh có thể bế ông bà từ ghế vào giường, từ giường vào nhà tắm. Anh biết sửa soạn bữa ăn cho ông bà, miễn là trong tủ lạnh hay trên kệ có sẵn thức ăn đã nấu hay đồ hộp.
Carebot
– Photo internet
Bà Hishako
và ông Kentaro mới đầu buồn tủi lắm, khi thấy mình được (hay bị) săn sóc bằng
người máy, nhưng dần dần họ phải miễn cưỡng chấp nhận thôi. Ngoài thức ăn một
tuần hai lần có người giao tới nhà, bỏ tủ lạnh cho. Tất cả các công việc khác từ
hâm nóng thức ăn, bế vào giường, làm vệ sinh nhà cửa, giúp giặt giũ, tắm rửa
hoàn toàn trông vào carebot.
Từ ngày có
carebot con cháu của ông bà hình như đến thăm ít hơn. Bà nghĩ chúng bận làm, bận
học. Nhưng ông thì không nghĩ thế, ông nói :
– Chúng nó
giao bà với tôi cho người máy rồi.
Bà an ủi
ông :
– Nhưng ông không thấy người máy cũng biết ôm ấp à. Thỉnh thoảng Sato (tên ông bà đặt cho carebot) chẳng ôm tôi là gì.
Cứ như vậy đã ba, bốn mùa hồng đi qua, hình ảnh con cháu mờ dần trong hai cặp mắt già nua. Những mảnh đất lâu năm không ai trồng trọt, tự nó đã mọc đầy cỏ dại, những cây hồng không ai hái, trái rụng, chết mục khắp mặt đất. Hai ông bà như hai con chim già trong một cái lồng bắt đầu xiêu đổ.
Ông Kentaro ra hiệu cho Sato đến đùn chiếc ghế lại gần vợ. Ông đưa bàn tay khẳng
khiu của mình sang nắm bàn tay khô mốc của vợ; bà biết ông sắp muốn nói điều
gì, bà nghiêng đầu dựa sát vào vai ông để nghe cho rõ.
Ông nói vào
tai vợ :
–Tại sao
văn hóa của người Nhật đối với thiên nhiên tốt đẹp như thế ! Họ chia mùa màng
cho chim chóc, muông thú, sự quan tâm tối đa. Sao họ lại để cho những mảnh kim
loại, những thiết bị điện tử săn sóc cha mẹ họ. Khi các con còn nhỏ tôi với bà
thay nhau bế ẳm, thay nhau cho con bú mớm. Con khỏe mạnh mình cười, con ốm đau
mình khóc. Mình có giao cho ai đâu, thậm chí con chó, con mèo chơi với con cũng
phải ngay bên cạnh mình. Bây giờ tôi với bà có chết trong nhà này thì anh Sato
chắc là chạy chung quanh mình kêu bíp bíp… Anh ta sẽ kêu hoài như thế cho tới
khi chị Junko mang thức ăn tới, có thể là ba hay bốn ngày hôm sau.
Bà im lặng
nghe ông nói, không biết trả lời thế nào. Bà nhớ khi anh con trai trưởng mang
Sato tới cho ông bà, anh có nói :
– Cha mẹ đừng
lo sợ gì, có carebot là như có con ở bên cạnh, anh ta làm hết được mọi việc, có
khi còn giỏi hơn con nữa. Mà cha mẹ có biết không, bây giờ thanh niên Nhật họ
lười cưới “vợ người” lắm, họ chỉ cần mua một cô vợ robot về là được đủ việc và
chỉ tốn tiền có một lần thôi. Họ sẽ không cần phải làm việc nhiều để nuôi gia
đình như con bây giờ đâu.
Bà nhớ là bà đã hốt hoảng nhìn xem cô con dâu có đứng gần đó không ? Cô đó nhậy cảm lắm, nghe được thì gia đình sẽ mất vui. May quá, cô ấy đang chuyên trò gì đó với hai đứa con.
Khi con cháu ra về hết để lại anh Sato, ông bà cũng mất cả tuần lễ mới quen với cách đi đứng, cách chăm sóc của anh. Bây giờ dù muốn hay không ông bà cũng phải chấp nhận sự hiện diện của anh. Không như chồng, lúc nào cũng than phiền là anh ta bằng máy, những va chạm của anh cứng ngắc, anh ta không có cảm xúc khi chăm sóc mình. Bà Hisako mỗi lần nhận được điều gì của anh, bà cố hình dung ra anh là người bằng xương bằng thịt. Thậm chí khi anh bế bà từ ghế vào giường bà nghe được cả hơi thở và nhịp tim anh đập. Bà có tưởng tượng thái quá không ?
Chị Junko mang thức ăn nấu sẵn tới như thường lệ, chị cất thức ăn vào tủ lạnh rồi đi tìm Sato. Chị cũng có bổn phận kiểm soát lại Sato mỗi khi chị đến, xem chức năng phục vụ của anh có cần điều chỉnh lại không ?
Căn nhà im ắng quá, thật ra cả ba người này có bao giờ gây tiếng động to nào
đâu. Chị đi từ nhà ngoài vào tận buồng ngủ của ông bà mới gặp cả ba người.
Trên hai
chiếc giường nhỏ kê song song cạnh nhau. Bà Hisako và ông Kentaro nằm như ngủ,
nằm rất thẳng thắn trên gối và chăn đắp ngang ngực. Sato đứng gập người, như
cúi lạy dưới chân giường của hai người. Chị đến gần, áp mặt mình vào mặt bà, rồi
lại áp sang mặt ông. Cả hai đều không còn thở nữa. Chị chạm tay mình lên vai
Sato, anh ta không có phản ứng nào, không phát ra tiếng động nào, hình như anh
cũng đã “chết”.
Junko lặng
lẽ đi ra khỏi nhà, khép rất nhẹ cánh cửa lại sau lưng mình. Hành động của chị
như một người máy.
Trần Mộng
Tú
Tản Mạn Cháo Tây, Cháo Tàu, Cháo Ta.
Trong tiếng Anh có đến ba chữ để nói về cháo. “Porridge” là từ để chỉ cháo trắng đặc được nấu từ gạo hoặc yến mạch gần giống như cháo trắng mà chúng ta hay dùng để ăn chung với hột vịt muối. Các nước phương Tây cũng ăn “Porridge” nấu rất đặc vào buổi sáng cho thêm tí muối tiêu với trứng tráng hoặc xúc xích nhỏ. Còn "Cháo hoa" (cháo nấu với ít gạo và nhiều nước để hạt gạo nở ra như hoa) và thường nấu chung với thịt thì được gọi là “Congee” hoặc “Rice Soup.” Để nói về món cháo vịt, đáng lẽ phải gọi là “Duck Meat Congee” hoặc “Duck Meat Rice Soup” mới đúng. Quả thật, có những cái mình nghĩ rằng mình biết rồi nhưng vẫn sai như thường.
Trở lại với cháo, lúc nhỏ tôi rất ghét ăn cháo vì cháo vừa nhạt vừa loãng, ăn xong cũng như chưa ăn, không được chắc bụng như ăn cơm. Tôi né tất cả các thể loại cháo từ cháo trắng ăn với thịt kho tiêu mỗi khi bị bệnh, cho tới cháo gà, cháo vịt, cháo lòng, cháo cá… Trong đó, món cháo mà tôi ghét nhất là cháo trắng của người Tiều. Không như cháo trắng của người Việt bán ở các xe cháo khuya ăn cùng với dưa món, hột vịt muối hoặc thịt cá kho tiêu, vốn là cháo trắng nấu đặc; Cháo trắng của người Tiều nấu rất loãng, bảy phần nước và ba phần gạo, nấu tới hạt gạo nở bung ra gần như nát nhừ, ăn chả có mùi vị gì cả.
Người Tiều ăn cháo gần như trong mọi bữa ăn. Buổi sáng của người Quảng Đông, sang thì điểm tâm với đủ thứ há cảo xíu mại, bình dân thì cũng tô hủ tíu mì hay cái bánh bao; còn buổi sáng của người Tiều thì ăn cháo loãng với cà na muối, hột vịt muối hoặc cải xá bấu muối thật mặn. Sang hơn tí thì người Tiều có thêm cặp “dầu cha quảy” là xong bữa ăn sáng. Buổi trưa và buổi chiều thì họ lại tô cháo loãng được múc ra húp thay canh. Ngay cả những quán bán đồ ăn người Tiều cũng luôn có nồi cháo trắng kế bên nồi cơm.
“Hồi ba còn nhỏ, ‘a dè a mà’ (ông nội bà nội) nghèo lắm, cả nhà bảy tám anh chị em, mỗi người chỉ có ‘dách gủn pạc chúc’ (một chén cháo trắng) và ‘pun che hàm tản’ (nửa cái trứng vịt muối) thôi.”
Ba tôi chẳng bao giờ dạy cho tôi nói tiếng Quảng Đông một cách bài bản mà luôn có cách nói chuyện nửa Việt nửa Quảng như vậy, con cái hiểu thì hiểu không hiểu thì thôi. Vậy mà cuối cùng tôi cũng nói được tiếng Quảng.
Người Tiều không chỉ ăn cháo trắng mà còn có cả cháo lòng với đầy đủ tim gan cật ruột cũng gần giống như cháo lòng của người Việt; nhưng lòng xắt lát mỏng để bên ngoài chứ không nấu trong nồi như cháo lòng của người Việt, khi nào khách gọi thì mới trụng qua cháo rồi cho vào tô. Nước cháo được nấu bằng mực, nấm rơm và xương ống nên rất ngọt và thơm. Người Tiều ăn cháo lòng cũng thường thêm “dầu cha quảy” như người Việt nhưng không bỏ giá và ớt mà bỏ rất nhiều hành lá xắt nhỏ, tiêu xay, gừng tươi xắt sợi và một ít dầu mè.
Dân sành ăn tối Sài Gòn – Chợ Lớn chắc ít người không biết tới quán cháo thập cẩm ở bùng binh Soái Kình Lâm kế bên chợ thuốc bắc Phùng Hưng. Cháo ở đây nấu theo kiểu người Quảng Đông là cháo trắng nấu đặc và ăn với tôm, mực, da heo, gan, cật, phèo nên gọi là “Chạp chúc” (cháo thập cẩm). Thật ra gọi là “Thập cẩm” không đúng lắm vì “Chạp cẩm” dịch ra tiếng Việt là “Tạp cẩm” mới đúng. Có lẽ chữ “Tạp” nghe có vẻ "hổ lốn" và hỗn tạp quá nên người Việt mới gọi là “Thập cẩm” cho sang hơn.
Theo lời kể của những người sống lâu ở Chợ Lớn thì quán cháo Đèn Năm Ngọn (tên cũ của khu Soái Kình Lâm) này đã có từ rất lâu đời rồi, nếu tính tới nay chắc cũng không dưới năm sáu chục năm. Hồi nhỏ, ba tôi hay chở tôi ra đây ăn, nhưng quán cháo này gắn với một kỷ niệm khá kinh dị nên tôi không bao giờ quay trở lại ăn nữa, dù thỉnh thoảng thèm món Hoa, tôi vẫn chở bà xã đi vòng vòng Chợ Lớn ăn lại những quán gắn liền với ký ức tuổi thơ của mình. Có một lần khi đang ngồi ăn với ba mẹ tôi ở quán cháo đó, có một cậu bé trạc tuổi tôi lúc đó (5-6 tuổi) bán vé số mời mua. Và khi nhìn lên thì tôi suýt nữa hét toáng lên vì sợ: cánh mũi của cậu bé này không biết bị ai cắt mất chỉ còn hai cái lỗ sâu hoắm nhìn vừa đáng thương vừa đáng sợ. Hình ảnh đó ám ảnh tôi tới ngày hôm nay đến mức tôi không dám ăn lại quán cháo đó lần nào nữa cho dù đã hơn 30 năm rồi.
Dạo mấy năm gần đây tôi lại đổi tính thích ăn cháo. Nhiều lúc cảm thấy mệt trong người hoặc chỉ là đơn giản không muốn ăn cơm thì một chén cháo trắng và nửa cái hột vịt muối luộc hoặc tí thịt kho tiêu mặn cũng có thể giải quyết cơn đói và nhẹ người. Cầu kỳ hơn một tí thì cho cái trứng "hột vịt bắc thảo" và tí thịt bằm vào trong nồi cháo quấy lên. Tôi thích ăn trứng bắc thảo nấu chung với cháo hoặc chưng cùng với trứng vịt tươi, trứng vịt muối tạo thành món trứng 3 màu ăn chung với cơm hay cháo gì cũng rất ngon. "Hột vịt bắc thảo" (tiếng Quảng Đông gọi là “Pì tản”) ai ăn không quen thì nhìn hơi sợ sợ vì cả quả trứng đen bóng và có mùi ngai ngái của “Amoniac,” nhưng khi đã quen rồi thì sẽ ghiền vì vị béo béo bùi bùi rất đặc trưng. Hồi còn ở Mỹ có lần tôi nấu cháo trứng vịt bắc thảo mời cô bạn người Nhật ăn thử. Cô lúc đầu còn ngại vì thấy màu cháo đen thui nhưng khi ăn một chén thì tự động vô nồi múc thêm chén nữa.
Bởi vậy mới nói, không phải cứ là sơn hào hải vị mới ngon mà đôi khi những thứ dân dã đơn giản nếu hạp khẩu vị vẫn ngon hơn yến sào bào ngư vi cá vậy.
Huỳnh Chí Viễn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét