Một số công việc đòi hỏi những kỹ năng đặc biệt, một số khác thì chỉ đơn giản là cần người có đủ tinh thần mạo hiểm. Dưới đây là một số công việc độc đáo bạn có thể tìm thấy tại Mỹ ngày nay, thậm chí với mức lương khá cao.
Người giữ cúp Stanley
Thợ lặn vớt bóng gôn
Khi gôn thủ đánh bóng rơi xuống nước, phải có người lặn xuống để lấy bóng gôn. Nhưng công việc này không dành cho tất cả mọi người: thợ lặn phải quen với tầm nhìn thấp và, đối với những người làm việc tại vùng đầm lầy, có thể gặp phải cá sấu.
Người nếm kem
Một nghề hoàn hảo dành cho những ai thích ngọt, một người nếm kem sẽ dành hàng giờ để nếm nhiều loại kem và phân loại dựa vào hương vị, mùi, kết cấu và độ đặc của nó. Ứng viên hoàn hảo phải có một khẩu vị khỏe mạnh và sự chú tâm tuyệt vời đến từng chi tiết.
Người kiểm tra giường
Không gì có thể vượt qua việc được leo lên một chiếc giường ấm áp, thoải mái. Những người kiểm tra giường chuyên nghiệp tại các công ty sản xuất thì phải nằm lên và ngủ trên những chiếc giường mẫu, sau đó đánh giá mức độ thoải mái và chất lượng của những chiếc giường đó. Họ cũng có thể phải thử gối, chăn và những sản phẩm khác hỗ trợ ngủ ngon.
Người thu hoạch sứa
Một nghề sinh lời với tiềm năng kiếm được 10,000 đô la mỗi ngày, ngư dân ở Georgia, Florida, và Nam Carolina thu hoạch sứa và xuất khẩu sang các nước như Nhật Bản, Trung cộng, và Thái Lan – nơi có nhu cầu cao về loại thực phẩm này. Sứa được sử dụng trong các món ăn như súp, salad, và thậm chí còn có công dụng trị liệu.
Thợ sửa chữa gấu bông
Nếu bạn đã từng mua gấu bông tại Build-A-Bear, bạn có thể an tâm rằng nó sẽ ở bên bạn đến suốt đời và mãi mãi. Các kỹ thuật viên gấu bông ở St. Louis, Missouri, có thể sửa chữa và làm lại gấu bông cho bạn nếu các chú gấu bông của bạn bị hư hỏng.
Như Ý
DU HỌC
Trong hình là 5 anh em trong dòng họ Choshu, một gia tộc cao quý và hùng mạnh ở Nhật đã lên đường du học Anh tại College London cách nay 156 năm.
Sau chuyến hải hành 135 ngày trốn đi trên tàu Jardine Matheson (mà ai tự ý xuất cảnh phải chịu tội tử hình), họ đã tới London năm 1863. (Việc bãi bỏ lệnh cấm xuất cảnh này chỉ xảy ra 3 năm sau đó)
Họ là nhóm sinh viên Nhật đầu tiên học ở châu Âu và sau khi trở về, họ đều trở thành những lãnh đạo hàng đầu của Nhật Bản đúng vào thời Minh Trị. Do Minh Trị khi đó là Nhật Hoàng rất trọng dụng họ. 5 người này đã làm gì sau khi về Nhật?
+Hirobumi Ito (伊藤博文- Y Đằng Bác Văn ) làm thủ tướng đầu tiên của Nhật, người cha của Hiến pháp Nhật Bản và có vai trò quan trọng trong việc thành lập Quốc hội Nhật.
+Kaoru Inoue thành bộ trưởng ngoại giao đầu tiên và được tôn vinh là 'người cha của nền ngoại giao Nhật.
+Yozo Yamao thành người sáng lập của ngành công nghệ và cơ khí Nhật Bản.
+Masaru Inoue lập ra ngành hỏa xa theo chuẩn Anh Quốc.
+Kinsuke Endo nắm ngành tài chính, tiền tệ.
5 anh em này đều là các võ sĩ đạo của dòng quý tộc Choshu có truyền thống chống ngoại bang. Sau khi triều đình Tokugawa ký hòa ước Kanagawa (1854), dòng họ này tự tổ chức kháng chiến chống quân Anh, Pháp, Mỹ và Hà Lan. Nhưng sau khi đánh nhau thì dòng họ này bị thua to vào năm 1864. Hoàng thân Nagato, đứng đầu gia tộc, phải đã ký hòa ước Shimonoseki, nộp tiền phạt trị giá 3 triệu usd.
Sự thất bại của dòng họ hẳn đã ảnh hưởng mạnh đến 5 chàng trai du học ở Anh này. Họ thấy đánh không lại được phương Tây thì phải học hỏi kẻ thù để kinh bang tế thế. Và họ đã mở đường cho làn sóng du học mạnh mẽ của thanh niên Nhật Bản sau này. Mà ngay cùng thời với họ có 19 thanh niên từ xứ Satsuma tức Kagoshima bây giờ cùng học tại College London. Đây chính là nguồn lực quan trọng giúp cho nước Nhật hùng cường như hiện nay.
Hiện ở Kyushu, Nhật vẫn còn tượng đài của 5 người thanh niên Nhật đi du học đầu tiên tại thành phố Kagoshima. Tinh thần du học để canh tân đất nước của họ rất đáng khâm phục.
--
Nguyễn Thị Bích Hậu.
Tản Mạn Về Tôm Hùm
- Giữ trong tủ lạnh
Tôm hùm có thể giữ sống trong 12 tiếng đồng hồ bằng cách quấn tôm trong vải ướt và cất trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4 độ C. Đừng cất giữ tôm hùm sống trong bao plastic bịt kín mít.
Không cất giữ trong tủ lạnh một con tôm hùm còn nóng mới nấu hay nướng để tránh cho tủ lạnh có mùi hôi. Nên chờ cho nguội rồi hãy cất vô tủ lạnh. - Giữ bằng cách làm đông lạnh
- Nấu tôm cho chín, để ráo nước rồi mới đông lạnh;
- Chờ cho nguội, gỡ thịt ra, bỏ vào hộp và đem đông lạnh;
- Có thể giữ thịt tôm trong bao plastic sau khi ép lấy hết không khí ra.
- Tôm nặng khoảng 1 pound cần dùng 1.5 lít nước. Con đực cần 10 phút và con cái 12 phút.
- Tôm nặng 2 lbs: cần 4.5 lít nước. Con đực cần 16 phút và con cái 20 phút.
- Tại sao tôm tươi có dính chất nhầy đen dưới bụng? Tôm bị bắt trong thời gian đẻ trứng. Trứng tôm tóp lại và thải chất vitello proteine từ trứng vào máu tạo nên chất nhầy màu đen. Ăn không sao, có thể rửa đi nếu không thích.
- Tôm cái đẻ bao nhiêu trứng? Vài ngàn trứng tùy theo tầm vóc của tôm. Tuy nhiên, trong 10,000 trứng đẻ ra, chỉ có một con tôm đạt được đến giai đoạn trưởng thành.
- Tôm bán ở chợ là loại được mấy tuổi? Không thể biết tuổi tôm nếu dựa theo tầm vóc của nó. Tốc độ tăng trưởng tùy vào nhiệt độ của nước biển. Nước càng nóng, tôm càng mau lớn. Tại Québec, tôm hùm đạt dến kích thước thương mại 25cm vào khoảng 8 tuổi.
- Tôm hùm sống bao lâu? Khoảng chừng 50 năm, có loại tới 100 năm.
- Tôm hùm ăn những gì? Cầu gai, sò, ốc, hến, cua, tép, cá, xác thú chết, rong rêu….
Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt và là ngôn ngữ chính thức của Việt Nam. Trong lịch sử Việt Nam đã có ba loại văn tự được dùng để ghi chép tiếng Việt là chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ. Chữ Hán và chữ Nôm là văn tự ngữ tố, mỗi chữ Hán và chữ Nôm biểu thị một hoặc một số âm tiết. Chữ quốc ngữ đã bắt đầu được sử dụng chính thức tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX.
Các dạng chữ viết tiếng Việt từng được sử dụng trong lịch sử
Chữ Hán
Vai trò của chữ Hán để ghi chép tiếng Việt chủ yếu là ghi lại các yếu tố Hán-Việt có trong văn bản Nôm, ngoài ra, chữ Hán cũng là thành tố quan trọng để tạo ra chữ Nôm.
Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X, Việt Nam chịu sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, chữ Hán và tiếng Hán được giới quan lại cai trị áp đặt sử dụng. Theo Đào Duy Anh thì nước Việt bắt đầu có Hán học khi viên Thái thú Sĩ Nhiếp (137 – 226) đã dạy dân Việt thi thư. Trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán.
Có ý kiến cho rằng chữ Hán đã hiện diện ở Việt Nam từ trước Công nguyên, dựa trên suy diễn về dấu khắc được coi là chữ trên một con dao găm . Tuy nhiên đó là lúc chữ Hán chưa hình thành, và trên các trống đồng Đông Sơn có thời kỳ 700 TCN – 100 SCN thì hiện diện "các chữ của người Việt cổ" chưa được minh giải, và chưa có tư liệu xác định vào thời kỳ trước Công nguyên cư dân Việt cổ đã sử dụng chữ.
Từ sau thế kỷ thứ X, tuy Việt Nam giành được độc lập tự chủ, nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là một phương tiện chính trong việc ghi chép và trước tác. Đến cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 thì bị thay thế bởi chữ Quốc ngữ. Nền khoa bảng Việt Nam dùng chữ Hán chấm dứt ở kỳ thi cuối cùng năm 1919.
Chữ Nôm
Dù chữ Hán có sức sống mạnh mẽ đến đâu chăng nữa, một văn tự "ngoại lai" không thể nào đáp ứng, và thậm chí được cho là "bất lực" trước đòi hỏi, yêu cầu của việc trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của người Việt, khiến chữ Nôm ra đời để bù đắp vào chỗ mà chữ Hán chưa đáp ứng được.
Chữ Nôm là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và phương thức cấu tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Quá trình hình thành chữ Nôm có thể chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu, tạm gọi là giai đoạn "đồng hóa chữ Hán", tức là dùng chữ Hán để phiên âm các từ Việt thường là tên người, tên vật, tên đất, cây cỏ chim muông, đồ vật... xuất hiện lẻ tẻ trong văn bản Hán. Những từ chữ Nôm này xuất hiện vào thế kỷ đầu sau Công nguyên (đặc biệt rõ nét nhất vào thế kỷ thứ 6).
Giai đoạn sau: Ở giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp tục dùng chữ Hán để phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo theo một số nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo hướng ghi âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt. Từ thời Lý thế kỷ thứ XI đến đời Trần thế kỷ XIV thì hệ thống chữ Nôm mới thực sự hoàn chỉnh. Theo sử sách đến nay còn ghi lại được một số tác phẩm đã được viết bằng chữ Nôm như đời Trần có cuốn Thiền Tông Bản Hạnh. Đến thế kỷ 18 – 19 chữ Nôm đã phát triển tới mức cao, át cả địa vị chữ Hán. Các tác phẩm như hịch Tây Sơn, Khoa thi hương dưới thời Quang Trung (1789) đã có bài thi làm bằng chữ Nôm. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng được viết bằng chữ Nôm là những ví dụ.
Chữ Hán và chữ Nôm có những khác nhau cơ bản về lịch sử ra đời, mục đích sử dụng và mỗi chữ có bản sắc riêng về văn hóa…
Chữ Quốc ngữ
Chữ Quốc ngữ là bộ chữ hiện dùng để ghi tiếng Việt dựa trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ Rôman với nền tảng là ký tự Latinh.
Việc chế tác chữ quốc ngữ Việt Nam là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng Tên người Châu Âu. Trong công việc này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết là các thầy giảng Việt Nam (giúp việc cho các linh mục người Âu). Alexandre De Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn chỉnh bộ chữ Quốc Ngữ. Đặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn Từ điển Việt – Bồ Đào Nha – Latinh (trong đó có phần về ngữ pháp tiếng Việt) và cuốn Phép giảng tám ngày. Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn diễn giảng vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài (in chung trong từ điển) có thể được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về ngữ pháp; còn cuốn Phép giảng tám ngày có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ 17.
Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn từ điển Việt-Bồ-La đã khá hoàn chỉnh nhưng cũng phải chờ đến từ điển Việt-Bồ-La xuất bản năm 1772, tức là 121 năm sau, với những cải cách quan trọng của Pigneau de Behaine thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống như hệ thống hiện nay.
Sự kiện đánh dấu vị thế chữ Quốc ngữ là khi người Pháp hoàn thành xâm chiếm Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19. Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các công văn ở Nam Kỳ . Nghị định 82 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký ngày 06/04/1878 cũng đề ra mốc hẹn trong bốn năm (tức năm 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ . Sang thế kỷ 20 thì chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910..
Việc cổ động cho học "chữ Quốc ngữ" ở toàn cõi nước Việt gắn với các phong trào cải cách trong giai đoạn 1890 – 1910 như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành, đã thừa nhận và cổ vũ học "chữ Quốc ngữ", coi là phương tiện thuận lợi cho học hành nâng cao dân trí .
Theo tư liệu trong "Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ (25/5/1938)" do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 25/5/2008, thì Hội ra đời ngày 25/5/1938, đến ngày 29/7/1938 Thống sứ Bắc Kỳ công nhận sự hợp pháp của Hội. Đó là dấu mốc chắc chắn cho vị thế "chữ Quốc ngữ".
Tiếng Việt hiện nay có 6 thanh điệu: ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng và tương đối khó phát âm đối với những người mà tiếng Việt không phải là tiếng mẹ đẻ. Ngày nay do sử dụng ký tự Latinh (a, b, c…) của chữ Quốc ngữ, việc giao tiếp ngôn ngữ trên internet trở nên dễ dàng hơn so với các bộ chữ tượng hình như chữ Nôm, chữ Hán…
Dự thảo "Quốc âm tân tự" cho tiếng Việt
Quốc âm tân tự (chữ Hán: 國音新字) là một loại chữ viết biểu âm. Tên gọi “Quốc âm tân tự” có nghĩa mặt chữ là chữ quốc âm mới (quốc âm là tên gọi cũ của tiếng Việt). Hiện còn hai bản viết tay cổ (mỗi bản có bốn tờ) của cùng một văn bản có tên là Quốc âm tân tự (國音新字) viết về loại chữ này đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam. Trong văn bản Quốc âm tân tự không có thông tin cho biết ngày tháng năm cụ thể tác phẩm này được viết ra. Căn cứ vào việc trong lời tựa của tác phẩm chữ “華” (hoa) trong tên gọi “中華” (Trung Hoa) đã được tị huý bằng cách bỏ không viết nét cuối của chữ này (nét sổ) thì có thể đoán rằng văn bản này được viết dưới thời vua Thiệu Trị (Mẹ vua Thiệu Trị tên là “Hồ Thị Hoa” 胡氏華). Cuối lời tựa của văn bản có dòng chữ “五星聚斗南城居士阮子書” (Ngũ Tinh Tụ Đẩu Nam thành cư sĩ Nguyễn tử thư). Qua dòng chữ này có thể biết rằng tác giả của Quốc âm tân tự là một cư sĩ mang họ Nguyễn (阮) ở thành Nam Định (南定) có biệt hiệu là Ngũ Tinh Tụ Đẩu (五星聚斗).
Quốc âm tân tự có 22 “cán tự” 幹字 và 110 “chi tự” 枝字. Cán tự được dùng để ghi phụ âm đầu, chi tự dùng để ghi vần. Mỗi cán tự đều được đặt tên bằng một từ mang vần “ông” có phụ âm đầu là phụ âm đầu mà cán tự đó biểu thị, ví dụ như cán tự biểu thị phụ âm “đ” được đặt tên là “đông”. Quốc âm tân tự không phân biệt “d” và “gi” như chữ quốc ngữ. Có một cán tự được dùng để ghi phụ âm đầu /ʔ/, cán tự này được đặt tên là “ông”.
Tác giả của Quốc âm tân tự đã dùng bốn nét bút là ngang (一), sổ (丨), chấm (丶), phẩy (丿) (nét phẩy còn có biến thể là “㇏”) để tạo nên các cán tự và chi tự. Không phải chữ đơn nào cũng có đủ bốn nét bút kể, có những chữ đơn chỉ có chứa hai hoặc ba nét bút nhưng dù một chữ đơn có bao nhiêu nét bút thì tổng số nét, không phân biệt loại nét bút, trong chữ đơn đó đều là bốn.
Quốc âm tân tự sử dụng cách phân chia thanh điệu truyền thống, thanh điệu được chia thành bốn loại là “bình” 平, “thướng” 上, “khứ” 去, “nhập” 入. Mỗi loại lại được chia ra thành hai bậc “âm” 陰 và “dương” 陽. Tổng cộng có tám thanh là:
·“Âm bình” 陰平: là thanh ngang theo cách gọi ngày nay.
·“Dương bình” 陽平: là thanh huyền theo cách gọi ngày nay.
·“Âm thướng” 陰上: là thanh hỏi theo cách gọi ngày nay.
·“Dương thướng” 陽上: là thanh ngã theo cách gọi ngày nay.
·“Âm khứ” 陰去: là thanh sắc ở các từ mà khi viết bằng chữ quốc ngữ không kết thúc bằng một trong bốn chữ “c”, “ch”, “p”, “t”.
·“Dương khứ” 陽去: là thanh nặng ở các từ mà khi viết bằng chữ quốc ngữ không kết thúc bằng một trong bốn chữ “c”, “ch”, “p”, “t”.
·“Âm nhập” 陰入: là thanh sắc ở các từ mà khi viết bằng chữ quốc ngữ kết thúc bằng một trong bốn chữ “c”, “ch”, “p”, “t”.
·“Dương nhập” 陽入: là thanh nặng ở các từ mà khi viết bằng chữ quốc ngữ kết thúc bằng một trong bốn chữ “c”, “ch”, “p”, “t”.
Các thanh thuộc bậc âm được ghi bằng một dấu nhỏ hình nửa vòng tròn, các thanh thuộc bậc dương được ghi bằng một dấu nhỏ hình vòng tròn. Để biểu thị thanh bình dấu thanh được đặt bên cạnh “chân trái” của chữ, với thanh thướng dấu thanh được đặt bên canh “vai trái” của chữ, với thanh khứ dấu thanh được đặt bên cạnh “vai phải” của chữ, với thanh nhập dấu thanh được đặt bên cạnh “chân phải” của chữ.
Các quan điểm về sự tồn tại của một loại chữ viết tiếng Việt không thuộc loại hình văn tự Hán vào thời cổ đại
Trong sách Thanh Hoá quan phong (清化觀風) do Vương Duy Trinh (王維楨) biên soạn năm Thành Thái (成泰) thứ 15 (Tây lịch năm 1903) có chép lại "một khúc ca“ ”tiếng châu" bằng "chữ châu" được chú âm đọc và dịch sang tiếng Việt bằng chữ Nôm kèm theo danh sách 35 "Man mẫu tự" (蠻母字, nghĩa là chữ cái của người Man) cũng được chú âm đọc bằng chữ Nôm. Sách nói về "chữ châu" như sau (nguyên văn bằng chữ Nôm, đoạn trích dưới đây đã được phiên âm sang chữ quốc ngữ):
“ | Tỉnh Thanh Hoá (清化) một châu quan (州關) có chữ là lối chữ thập châu (十州) đó. Người ta thường nói rằng nước ta không có chữ, tôi nghĩ rằng không phải thập châu vốn là đất nước ta, trên châu còn có chữ lẽ nào mà dưới chợ lại không. Lối chữ châu (州) là lối chữ nước ta đó. Nay xem chữ châu với chữ Xiêm (暹), chữ Lào (牢), chữ Mãn (滿) cùng với chữ Lang Sa (浪沙) tuy rằng viết dọc viết ngang có khác dạng cũng là một lối chữ loan hoàng khoa đẩu (鸞凰蝌蚪) đời xưa. Trung Quốc từ người Lý Tư (李斯) đời nhà Tần (秦) trở về sau hay có người thay đổi làm lối khác, mà nước ta nội thuộc kể đã nghìn dư năm, từ vua Sĩ vương dạy lấy chữ Trung Quốc mà lối chữ nước ta bỏ đi hết. Thập châu bởi là nơi biên viễn cho nên lối chữ ấy hãy còn. | ” |
Một số người đã cho thứ chữ châu được nói đến trong Thanh Hoá quan phong là chữ Việt cổ. Kỳ thực chữ châu trong Thanh Hoá quan phong là một trong tám dạng chữ viết của người Thái, cải biên từ chữ Phạn, lưu hành ở vùng núi Thanh Hóa, Nghệ An.
Cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 một người tên là Đỗ Văn Xuyền tự nhận là tìm ra và giải mã được "chữ Việt cổ" , nêu trong cuốn sách "Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ" ra mắt tháng 1/2013 . Theo đó Trung tâm UNESCO Nghiên cứu Bảo tồn Chữ Việt Cổ đã giới thiệu là :
“Ngay từ trước Công nguyên, người Việt đã có chữ tượng thanh – loại chữ ghép chữ cái thành từ”. Điều này được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ đồ gốm, đồ đồng của thời kỳ Đông Sơn như: lưỡi cày, đặc biệt là trống đồng… cùng các hình vẽ, chữ viết trên đá cổ Sa Pa, Xín Mần, Pá Màng… theo một hệ thống nhất quán, tất cả đều thể hiện đó là những chữ viết cổ từ thời kỳ tiền văn tự, phát triển và hoàn thiện dần thành bộ chữ Khoa Đẩu . Đây là loại chữ lưu truyền từ thời Vua Hùng, có hình dáng như những con nòng nọc .
Tuy nhiên học giả khác thì cho rằng cái gọi là "chữ Việt cổ" của ông Đỗ Văn Xuyền thực chất cũng chính là loại chữ Thái đã được nhắc đến trong Thanh Hoá quan phong, Đỗ Văn Xuyền đã cố gò ép để loại chữ Thái này có thể dùng để ghi tiếng Việt được.
Chỉ dẫn
1.^ Bãi đá cổ Nậm Dẩn, cùng với bãi đá cổ Sa Pa, bãi đá Tả Phìn (Lào Cai), đều ở vùng ranh giới của vương quốc Đại Lý với nước Việt hồi năm 950-1100. Phân bố, sự tương tự phong cách tạo hình và mô típ đề tài của các hình ở các bãi đá gợi ý về liên quan đến thời kỳ lịch sử đó.
(Nguồn: Wikipedia)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét