.

.

a

Hoa đào nở, chim én về, mùa xuân lại đến. Chúc quý thầy cô và anh chị em đồng môn năm mới Giáp Thìn : - nghìn sự như ý, vạn sự như mơ, triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc.
THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ, ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU - MỘT NĂM MỚI AN KHANG THỊNH VƯỢNG - VẠN SỰ NHƯ Ý

06 tháng 9 2024

QUỐC LỘ DÀI NHẤT THẾ GIỚI - ÚC ĐẠI LỢI…


Bạn có biết Quốc lộ 1 Úc 🇦🇺 là quốc lộ dài nhất trong nước và là một trong những quốc lộ dài nhất thế giới? Với chiều dài ấn tượng khoảng 14.500 km (9.009 dặm), đường quốc lộ này bao quanh toàn bộ vành đai của Úc.
Nó kết nối các thành phố lớn và các địa điểm du lịch dọc theo bờ biển, mang đến khung cảnh ngoạn mục về cảnh quan ven biển, bãi biển, vườn quốc gia và các thành phố mang tính biểu tượng như Sydney, Melbourne, Brisbane, Perth và Adelaide.
Còn được gọi là "Quốc lộ" hay đơn giản là "The One", mạng lưới đường bộ rộng rãi này là rất cần thiết để kết nối các thành phố lớn và vùng ven biển của Úc.
Ngoài việc là tuyến đường giao thông quan trọng, Quốc lộ 1 là tuyến đường du lịch phổ biến cho phép du khách khám phá sự đa dạng về địa lý và văn hóa của đất nước.
Từ những bãi biển vàng đến những thành phố sôi động, mỗi đoạn đường quốc lộ này mang đến một cuộc phiêu lưu mới và một góc nhìn độc đáo về nước Úc.

CANG HUỲNH lược dịch từ Autour du Monde.

“Hồng trà” của Tàu và “Chai ” của Ấn

Theo quan niệm của phần đông người Việt ta thì “trà” là nói đến uống chè theo phong cách Trung Hoa. Tất cả các loại trà khác nhau đều được chế biến từ lá cây chè, tên khoa học là Camellia sinensis (chữ sinesis nghĩa là “xuất xứ Trung Quốc” trong tiếng Latin).
Cây chè hoang dã mọc cao ở vùng Xishuangbanna, Vân Nam. Những người hái chè can đảm đứng thăng bằng trên những cành cây cả ngàn năm tuổi. Nguyên tắc là: cây càng cao, giá lá chè càng cao.
Người Trung Quốc chia chè ra làm sáu loại dựa theo mức độ lên men của lá chè (từ thấp đến cao): bạch trà, lục trà, hoàng trà, Ô Long trà, hồng trà và hắc trà. Với các nước Đông Á chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa thì phổ biến nhất vẫn là lục trà (chè xanh) và Ô Long trà. Trong khi đó 90% trà tiêu thụ trên thế giới lại là hồng trà – black tea (người Tàu gọi tên theo màu nước – “hồng” là màu đỏ, tương như Nhật: Kocha, Triều Tiên: Hongcha, còn người Tây lại gọi tên theo màu lá trà là “đen”).
Từ trái qua phải: Lục trà (Green tea), Hoàng trà (Yellow tea), Ô Long trà (Oolong tea), Hồng trà (Black tea)
Điều đó có nghĩa là, với thứ nước chè mà chúng ta vẫn uống hằng ngày, trong 10 người uống trà trên toàn thế giới thì sẽ có 9 người không biết chúng ta đang nói về cái gì. Nói một cách khác, những loại trà tầm như Matcha hay Trà sen gần như không được biết đến bên ngoài Đông Á. Vì vậy mình viết bài này để đưa đến một góc nhìn khác về việc uống trà trên thế giới nói chung, qua một nước điển hình, tiêu thụ trà nhiều nhất toàn cầu là Ấn Độ.
1. Black tea – Hồng trà
Trà là loại thức uống phổ biến thứ nhì trên thế giới sau… nước. Như đã nói ở trên thì black tea (tạm gọi “trà đen”) lại là loại được dùng rộng rãi hơn cả. Lí do đơn giản là vì trà đen giữ được mùi, màu, vị đến mấy năm trong khi trà xanh sẽ mất vị nhanh chóng trong vòng chưa đến một năm.
Ở phần trên bài, mình dùng chữ “lên men” (fermentation) để phân loại trà là dịch từ tiếng Anh, nhưng thực ra đây là một thuật ngữ dùng sai trong quá trình chế biến lá chè tươi, chính xác phải là “oxy hóa” (oxidation). Trà đen là loại mà lá chè bị oxy hóa nhiều hơn cả, nôm na là tiếp xúc với nhiệt ÍT nhất. Đầu thế kỉ XIX, người Anh (bị nghiện trước rồi sau mới) nhận ra tiềm năng kinh doanh vô hạn của trà. Vì muốn vận chuyển và bảo quản trà đi qua những quãng đường rất dài đến châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và châu Úc với những đặc điểm khí hậu rất khác nhau, họ đã phát triển phương pháp này từ cách làm hồng trà truyền thống của Trung Quốc vốn rất ít phổ biến.
Đầu tiên sau khi thu hoạch, lá chè được sấy hoặc phơi khô để bẻ vỡ các liên kết protein trong lá và giảm hàm lượng nước xuống còn khoảng 70% ban đầu.
Phơi lá chè ngoài trời trước xưởng trà ở Vân Nam
Tiếp theo là giai đoạn chế biến chính, có hai phương pháp hiện nay là Chính thống (Orthordox) và CTC (Crush, tear, curl – nghiền, xé, viên).
Làm theo cách chính thống là dành cho chè hảo hạng, nghĩa là lá được vò (bằng tay hoặc bằng máy) cho đến khi lá chè khô, vụn ra và xoăn lại.
Cách còn lại, CTC, dành cho chè loại thường, chiếm đến 80% thị trường, là dùng máy cắt rồi xé cho nát nhừ nát tử sau đó vo viên lại. Những phần vụn thừa từ cách làm chính thống có thể đem trộn vào cùng với cách làm này. Tất cả các loại chè túi nhúng (tea bag) đều làm theo cách này cả.
Trà đen trông sẽ lổn nhổn từng viên như thế này đây, chứ không rõ hình thù như chè búp Thái Nguyên. Dám cá là có nhiều người ngồi uống trà nhúng Lipton đến mòn cả ghế rồi mà chưa từng xé cái túi lọc ra xem bên trong nó thế nào.
Trước thời Minh, người Trung Quốc đã nghĩ ra cách nén trà đen thành dạng bánh để dễ bảo quản và vận chuyển. Họ trộn trà cùng với một số chất phụ gia như bột mì, tiết lợn hay phân bón để kết dính và chống ẩm mốc (viết đến đây lại nhớ đến vụ trộn phân bón làm cho nước chè xanh ngắt đẹp lung linh mấy năm trước, ngẫm ra thì người ta cũng chỉ muốn bảo tồn phương pháp truyền thống thôi mà). Những bánh trà này gọi là trà chuyên (
茶磚), người Anh dịch nôm na là tea brick (nghĩa là “cục gạch trà”, vì chữ “chuyên” trong tiếng Hán nghĩa là “cục gạch đất nung” thật).
Ngày nay trà chuyên vẫn được sản xuất đối với hắc trà (trà có nồng độ oxy hóa cao hơn cả black tea) .. gọi là để uống nhưng mục đích chính là làm quà lưu niệm.
Vì độ quý hiếm cũng như công dụng chữa bệnh và giải khát của trà mà những bánh trà này được sử dụng như một thứ tiền tệ không chính thức ở Mông Cổ, Tây Tạng và nhiều nước Trung Á. Đặc biệt là khắp vùng Siberia (Xi-bê-ri) rộng lớn ở Viễn Đông Nga, người ta dùng bánh trà để trả tiền nhiều hơn là dùng đồng bạc. Những bánh trà này đều được sản xuất tại vùng Vân Nam, được coi là nơi khởi nguồn của cây chè. Từ những năm đầu nhà Đường cho đến khi nước Nam Chiếu được thành lập rồi chiếm giữ vùng sản xuất nguyên liệu chè đầu tiên và duy nhất trên thế giới, một con đường dần hình thành để giao thương trà khởi nguồn từ huyện Phổ Nhĩ (Pu’er), tỉnh Vân Nam (giáp với Điện Biên và Lai Châu) rồi tỏa ra theo ba nhánh: một đi Tứ Xuyên qua Quý Châu, một đi Tây Tạng và một đi Đông Bắc Ấn Độ qua Miến Điện. Con đường này được ví như Con đường tơ lụa ở phía nam và được gọi là Trà Mã Đạo ( 
茶馬道) tức là dùng ngựa vận chuyển trà nhưng thực ra sức người là chính. Đến tận năm 2011, mới có một nhà thám hiểm phương Tây đầu tiên tên là Jeff Fuchs đi được trọn vẹn con đường sáu nghìn cây số này trong bảy tháng rưỡi (so ra thì cũng ngang tầm với anh Vừ Già Pó đi Pakistan đấy chứ).
Bản đồ Trà Mã Đạo đi qua một loạt các thành phố lớn, có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế ở những vùng núi xa xôi hẻo lánh này. Con đường này bắt đầu hình thành vào những năm 700 Công Nguyên, phát triển cực thịnh vào thế kỷ XIX khi mà nhu cầu uống trà của phương Tây tăng lên chóng mặt, kéo dài gần một nghìn chín trăm năm cho đến khoảng năm 1960, khi mà Tây Tạng nổi dậy và chiến tranh Trung-Ấn nổ ra.
Những người đàn ông làm cửu vạn với những bánh trà nặng trĩu trên lưng. Ảnh: Ernest Henry “Chinese” Wilson, 1908, Tứ Xuyên, Trung Quốc. (Tác giả bức ảnh là một nhà nông nghiệp đã giới thiệu khoảng hai nghìn giống cây bản địa Trung Quốc sang châu Âu, ví dụ như quả kiwi, trong đó có sáu mươi loài đặt theo tên ông, nên mới có biệt hiệu là Wilson Ba Tàu). Bức ảnh cho thấy những người vận chuyển này mang trên lưng khoảng 60 đến 90 cân trà, nhiều hơn cả trọng lượng cơ thể họ. Nhiều khi họ còn tranh thủ khuân theo muối mỏ để bán.
2. Văn hóa trà của Ấn Độ
Vậy là sau một hồi diễn giải rất dài thì bạn đọc hẳn cũng đã nhận ra rằng trà đen đã đến Ấn Độ từ rất sớm, khoảng năm những 700. Nhưng người Trung Quốc thì xưa nay vẫn vậy, làm gì có chuyện họ để hạt giống chè lọt ra ngoài, nên uống chè cả nghìn năm mà dân Ấn Độ vẫn không biết mặt mũi cái cây chè tươi nó ra làm sao. Và cũng chính vì việc vận chuyển khó khan, giá cả đắt đỏ mà trà không hề phổ biến ở Ấn Độ. Tài liệu sớm nhất ghi lại việc người Ấn Độ trồng chè là bởi những nhà thám hiểm Hà Lan vào cuối thế khỉ 16, nhưng chỉ là những bộ tộc nhỏ, trồng làm rau ăn, đem xào với tỏi.
Ngày nay trà được coi là quốc ẩm của Ấn Độ. 90% người dân Ấn Độ uống trà ngày đêm sáng tối và trở thành nước sử dụng khối lượng trà nhiều nhất trên thế giới, dù lượng trà tiêu thụ chia ra đầu người thì không cao (vì chia cho tận một tỉ dân). Ấn Độ đang nắm giữ những công nghệ sản xuất chè tiên tiến nhất hiện nay với quy mô khổng lồ. Trong gần một thế kỉ, Ấn Độ là nước sản xuất chè nhiều nhất trên thế giới cho đến gần đây đã xuống thứ hai sau Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy. 70% sản lượng chè của Ấn Độ được tiêu dùng nội địa. Việc sản xuất chè ở Ấn Độ quan trọng đến mức trong Chính phủ có cả Ủy ban Nhà nước về Chè (Tea Board of India). Nhưng quay ngược dòng lịch sử thì không phải người Ấn Độ phổ biến chè ra toàn quốc mà chính là người Anh.
Thủ tướng Ấn Độ Narenda Modi được Nội các Tổng lý Đại thần Nhật Bản Shinzō Abe mời uống trà xanh matcha theo phong cách trà đạo. Ông Narenda Modi xuất thân từ một gia đình trung lưu nghèo, lên sáu tuổi đã đi bán trà dạo ở ga cho khách đi tàu hỏa rồi sau mở hàng nước chè cạnh bến xe buýt. Cả hai ông trong ảnh đều nghiện trà nhưng mà màu trà các vị ấy thích lại khác nhau.
Công ty Đông Ấn muốn phá vỡ thế độc quyền của Trung Quốc về chè (để sau đó độc quyền bán chè cho cả thế giới) nên đã lấy được hạt giống và đem về bang Assam của Ấn Độ (xem bản đồ bên trên) để trồng đại trà (chữ “trà” trong từ “đại trà” là đơn vị cổ tính số lượng lúa đã gặt, bốn trăm bó là một trà chứ không phải trà là chè đâu nhé). Rồi thật tình cờ và thật bất ngờ, người Anh đã tìm ra giống chè thứ hai trên thế giới, là cây chè bản địa tại Assam, đem nhân giống để trồng trên toàn Ấn Độ và Ceylon (Sri Lanka về sau). Ngành công nghiệp này nhanh chóng thu hút số lượng lớn lao động, nông dân nghèo bỏ ruộng đi vào các đồn điền chè làm nô lệ như dân Việt Nam đi cao su cho Pháp.
Những đồi chè mộng mơ ở Darjeeling – vùng trồng chè nổi tiếng với thương hiệu Darjeeling tea. Toàn Ấn Độ dùng chung một múi giờ nhưng riêng những vùng trồng chè tập trung ở Assam và Tây Bengal tự ý dùng một múi giờ khác, sớm hơn một tiếng. Vì những bang ở phía Đông Bắc này trên thực tế đón ánh sáng mặt trời trước nên đổi giờ để người ta đi trồng và thu hái chè cho sớm sủa.
Thế nhưng người Ấn vẫn không quen uống trà cho đến khi người Anh phải nghĩ ra chiến dịch quảng bá trà để đẩy mạnh tiêu thụ ngay tại Ấn Độ. Các công ty của Anh cho công nhân người Ấn uống trà vào những lúc nghỉ giải lao, dần dà đâm nghiện lúc nào không biết (cùng một bài với Pháp cho dân An Nam hút thuốc phiện). Thế là thói quen uống trà lan ra khắp Ấn Độ cùng với mạng lưới đường sắt thông qua những người công nhân làm đường.
Người Anh ban đầu giới thiệu trà có cho thêm một chút xíu đường và sữa nhưng người Ấn Độ đã chế ra chai của họ, trà đặc, nhiều sữa, nhiều đường và thêm các loại gia vị. Trà sữa là một cách uống trà du nhập từ Trung Quốc nhưng lại không được đông đảo người Trung Quốc ngày trước dùng. Vì đó là thói quen của các bộ tộc du mục phương bắc, cho sữa hoặc bơ vào trà để tăng cường năng lượng, trong đó có dân tộc Mãn Châu nên trà sữa chỉ được giới quý tộc Mãn Thanh sử dụng. Người Ấn Độ trước kia thường dùng sữa trâu để cho vào trà nhưng ngày nay hầu hết dùng sữa bò. Sữa được cho vào đun sôi cùng với trà. Khác với trà xanh chỉ dùng nước nóng già khoảng 80°C, trà đen cần phải đun sôi ở 100°C để hoàn chỉnh hương vị. Chất tannin trong trà có vị càng đắng khi tiếp xúc với nhiệt càng lâu, nên trà xanh không được đun sôi là vì thế.
Sau đây xin giới thiệu một công thức đơn giản (nhưng gia truyền của nhà hàng) để các bạn có thể tự làm dễ dàng ở nhà một cốc chai theo phong cách Ấn Độ:
800 ml nước lã
200ml sữa tươi (tỉ lệ sữa:nước là 1:4)
6 teaspoon trà đen (nếu không tìm mua được thì có thể xé gói trà Dilmah ra dùng, đây là một nhãn hiệu của Sri Lanka, chất lượng tốt hơn Lipton)
1 teaspoon tiểu đậu khấu (cardamom) khô hoặc bột
1-2 nhánh gừng tươi (đập dập chứ không cắt lát để lấy nước cốt)
1,5-2 tablespoon đường trắng (độ ngọt là tùy khẩu vị)
Cứ thế lần lượt cho vào cái nồi con rồi đun sôi bùng lên trong 2-3 phút là được. Đổ ra cốc qua cái lọc để bỏ phần cái đi
Tái bút: Nhân thấy có cái chữ teaspoon trong công thức lại ngứa tay viết thêm. Chữ teaspoon được dùng trong công thức nấu ăn theo thông lệ quốc tế (ở ta hay dịch là thìa cà phê) cũng bắt nguồn từ việc xúc trà ra ấm. Ngày trước, giới nhà giàu ở Anh làm những cái hộp thật đẹp bằng vàng bằng bạc chỉ để đựng trà gọi là tea caddy và dùng một cái thìa bạc to chạm trổ đẹp để lấy ra gọi là caddy spoon.
Tea caddy và caddy spoon bằng bạc
Từ caddy spoon lại dùng một cái thìa nhỏ hơn để chia ra theo số lượng cần pha. Trà đắt nên một teaspoon bé tẹo là đủ cho một cốc trà rồi. Teaspoon từ đó trở thành một đơn vị đo lường chính thức trong Hệ đo lường Anh (mà trên thế giới cũng chả còn nước nào ngoài Mỹ vẫn bướng không thèm công nhận Hệ đo lường Quốc tế). Một teaspoon trong ngành công nghiệp thực phẩm Mỹ được quy định bằng 5ml.

Trà: cha, chè, chai, chay, tê…, và còn gì nữa?
Hieniemic

“If you are

cold, tea will warm you. If you are too heated, it will cool you. If you are depressed, it will cheer you. If you are excited, it will calm you.” (William Gladstone – thủ tướng Anh thế kỉ 19)

Chữ “trà” lẫn chữ “chè” trong tiếng Việt bây giờ mình dùng là từ Hán Việt. Người

Tàu viết chữ  để chỉ cả cái loại cây lẫn cái loại thức uống. Tiếng Nhật cũng xài chữ kanji  và đọc là cha, trà xanh người ta kêu là o-cha và trà đen thì kêu là ko-cha. Người Triều Tiên cũng gọi là cha. Trong tiếng Việt mình, ở miền Bắc, cả từ chè và trà được dùng như nhau, nhưng ở miền Nam, theo thông lệ thì người ta hay kêu cái loại cây là cây chè còn cái loại nước là nước trà.
Trà xanh o-cha của Nhật. (Ảnh trong toàn bài là từ nhiều nguồn trên internet)
Trà đen ko-cha, dù ko-cha trong tiếng Nhật nghĩa là trà đỏ, nhưng thế giới xếp ko-cha vào loại black tea (trà đen).
Nước Trung Quốc là một cái nước rất bự nên cách phát âm chữ 
 cũng biến thiên vô kể. Ở vùng Nam Trung Hoa, có chỗ người ta đọc là tê. Người phương Tây sau khi nhặt được cái cây và cái loại nước uống đó về thì cũng dùng cái kiểu phát âm này mà gọi. Tiếng Latin gọi là thea (tê-a), tiếng Anh gọi là tea, tiếng Pháp gọi là thé (đọc là tê).
Một nguồn phát âm nữa là từ tiếng Ba Tư. Tiếng Ba Tư ngày xưa lấy từ tiếng Tàu mang về và gọi trà là chay. Từ đây, chữ chay lan ra khắp các vùng Tiểu Á, Trung Á, Ả Rập, Nam Á và Địa Trung Hải. Tiếng Nga kêu là чай (chai). Tiếng Hy Lạp kêu là τσάι (cũng là chai luôn). Vài ví dụ thế thôi.
Trên mạng có mấy ông rảnh rỗi ngồi võ đoán rồi kết luận hùng hồn gì đó rằng từ “trà” không có nguồn gốc từ phương Bắc như trước giờ vẫn lầm tưởng mà vốn có nguồn gốc phương Nam. Chả hiểu ba cái kết luận đó có ích lợi bổ dưỡng gì ngoài việc tự vui sướng với những cái danh tự mình gán cho mình và góp thêm phần vào phong trào bài Tàu cực đoan, nhưng mặc kệ gì thì gì, cả thế giới đều gọi cái loại thức uống đó bằng các âm từa tựa nhau và có chung một nguồn gốc.

Thế trong trà có cái gì?
Trong trà có khá là nhiều hợp chất hữu cơ. Hợp chất hữu cơ đại khái là tất cả hợp chất chứa nguyên tố carbon, trừ CO2, các muối carbonate, carbonic acid, và các carbide (ví dụ như Al4C3) đều là hợp chất hữu cơ. Các hợp chất hữu cơ trong trà đại loại nêu sơ lược gồm có caffeine, theanine và các hợp chất polyphenol.
Bảng thống kê lượng caffeine trong trà và cà-phê, như vậy trà Yerba và trà đen là hai loại có hàm lượng caffeine cao nhất
Trước nhất nói tới caffeine đi. Đọc tên cái chất này thì hẳn phải nghĩ ngay tới cà phê. Caffeine được tách đầu tiên từ hạt cà phê. Nó là một chất kích thích thần kinh. Vì sao caffeine gây kích thích thần kinh thì có thể hiểu thế này: khi cơ thể hoạt động sẽ sinh ra một chất kêu là adenosine. Tới một mức nào đó thì những phân tử adenosine sẽ gắn vào các thụ thể (receptor – một thứ radar tí hon) trên hệ thần kinh, làm giảm hoạt động của các tế bào thần kinh. Kết quả của việc này làm cho cơ thể bớt tỉnh táo và… buồn ngủ.
Caffeine lại có cấu trúc gần giống với adenosine. Khi uống caffeine vào, nó tranh chỗ của adenosine và bám vào các receptor. Ít adenosine bám vào hệ thần kinh hơn nên cơ thể tỉnh táo hơn. Ngoài ra, caffeine còn kích thích tuyến yên ở trên não làm tiết ra adrenaline (là hormone tuyến thượng thận, ad- là ở trên (thượng), renal là tính từ để chỉ thận). Adrenaline là hormone hay tiết ra khi cơ thể bị đặt vào tình huống nguy hiểm, stress hay căng thẳng, nó làm tim đập nhanh hơn, thở dốc hơn, máu chảy đến các cơ bắp mạnh hơn, đồng tử giãn ra, lông dựng lên, … đại khái là đặt cơ thể vào trạng thái sẵn sàng cho phản ứng fight-or-flight (mình thích dịch là đánh hay tránh), nghĩa là trang bị cho cơ thể để sẵn sàng giải quyết khó khăn, hoặc là chống lại, hoặc là bỏ chạy. Phản ứng này là phản ứng có lợi cho sinh tồn và chắc hẳn là đã được chọn lọc tự nhiên giữ gìn.
Nhiều người cũng uống trà vào buổi sáng cho tỉnh táo, trong ảnh là bữa sáng với trà chanh, bánh mì mứt và trái đào hầm
Trong trà còn có theanine, là một amino acid. Theanine là một chất làm dịu căng thẳng và giúp tỉnh táo. Theanine, nhìn tên ta có thể thấy được gốc từ thea- trong tiếng Latin, chỉ trà. Theanin tìm thấy nhiều trong trà hơn là cà phê. Do trong trà có cả caffeine lẫn theanine nên uống trà thường có cảm giác dễ chịu. Nhiều người uống trà được nhưng uống cà phê vào thì hơi khó chịu chắc là do vậy.
Thứ ba là các hợp chất polyphenol. Poly- nghĩa là nhiều, phenol là từ chỉ những cái vòng sáu cạnh có cái vòng tròn ở giữa nhìn giống như tổ ong trong hóa hữu cơ, gắn thêm gốc -OH. Polyphenol chỉ những hợp chất có nhiều cái vòng đó. Nhiều bạn hẳn cũng biết rằng trong trà có cái chất gì đó chát và rất có lợi kêu là tannin, cũng là tên khác của những hợp chất polyphenol. Khi người ta hái lá chè, lá chè sẽ bắt đầu tiết ra những enzyme làm oxy hóa những hợp chất polyphenol này. Để hạn chế điều này, chè sau khi hái sẽ được đưa ngay vào công đoạn sao chè, nghĩa là cho chè vào lò “rang” lên bằng nhiệt độ cao, mục đích là để làm biến tính các enzyme đó, khiến cho nó không oxy hóa các polyphenol được nữa.
Nghiên cứu tách chất polyphenol trong trà để làm thuốc
Các polyphenol trong trà điểm danh có 4 tên sau đáng chú ý: EC (epicatechin), ECG (epicatechin gallate), EGC (epigallocatechin), EGCG (epigallocatechin gallate). EGCG nghe khá quen nếu các bạn để ý quảng cáo trà xanh 0 độ hay trà xanh C2 gì đó, có câu “hàm lượng i gi xi gi cao”. Mấy cái polyphenol này là chất chống oxy hóa.
Nhưng chất chống oxy hóa là gì? Đến đây, bạn nào ghét môn Hóa đừng đọc nha… Trong cơ thể có một dạng phản ứng gọi là oxy hóa-khử. Quy ước là: cứ một chất khi truyền electron cho chất khác thì nó là chất khử, hay nói cách khác là nó bị oxy hóa. Quá trình này sẽ tạo ra các gốc tự do, nghĩa là 1 phân tử hay ion chứa một electron tự do, độc thân. Những kẻ độc thân tự do này có nhu cầu kết bạn, nên sẽ tạo ra chuỗi phản ứng, bằng cách cướp electron từ phân tử khác, biến cái phân tử kia thành gốc tự do mới. Quá trình này gọi là oxy hóa. Mấy nhà khoa học nói quá trình này liên quan mật thiết tới lão hóa.
Thế rồi xuất hiện những “anh hùng” – những phân tử mang danh chất chống oxy hóa (antioxidant), là những kẻ dư electron, chúng sẽ gắn thêm electron cho mấy cái gốc tự do kia để hết còn đi oxy hóa người ta. Do đó, chắc là cứ tọng vào người nhiều chất chống oxy hóa thì cơ thể sẽ khỏe mạnh, trẻ lâu!
Chất polyphenol trong trà có mặt nhiều trong các loại thuốc chức năng, nhằm chống lão hóa, lọc máu, giảm béo, tang sức đề kháng…
Mình hiện đang học ở Anh nên nói tí về trà Anh. Nước Anh là một nước người ta rất thích uống trà. Trà ở đây người ta nhập về chủ yếu từ Sri Lanka và người ta hay uống trà nóng với sữa. Người Anh uống trà truyền thống là trong tiệc trà buổi chiều. Họ uống trà và ăn bánh. Có một kiểu tiệc trà đặc trưng là trà kem (cream tea), uống trà ăn bánh scone phết kem bơ sữa và mứt dâu. Cái truyền thống này bắt nguồn từ vùng Devonshire và được coi là rất đặc trưng Anh Quốc.
Trà chiều của người Anh
Mình từng vào một cửa hàng trà ở Winchester. Ở đó người ta bán đủ các thể loại trà. Một cửa hàng nhỏ có một đống các lọ thủy tinh chứa các loại trà với vô số loại mùi. Người ta ướp trà rất hay, đủ các hương, từ mùi rất ngọt của đào, hay của berry, hay của táo, hay của vải ,cho tới trà hương chanh hương cam hương xả, đến cả hương oải hương rất gắt…, trông (và ngửi) rất thích mắt (và mũi). Thích nhất là cái trà trộn lẫn với cánh hoa anh đào sakura có mùi rất ngọt.
Công ty sách Nhã Nam có xuất bản cuốn Trà Kinh của Lục Vũ, nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm xem người Tàu uống trà thế nào và cách chế biến trà truyền thống đại loại ra sao thì có thể coi tham khảo. Người Việt mình có cái trà sen là hay được coi là trà truyền thống của Việt Nam, cứ tôi tối chèo thuyền ra đầm sen nhét trà vào những búp sen non rồi buộc lại, sáng hôm sau lại chèo ra hái sen về, hứng luôn sương sớm đọng trên lá sen đúng kiểu Nguyễn Tuân rồi đem túm trà vào lá sen mà nướng, sau đó thì pha uống. Coi ra người mình cũng hay ho, có nhiều thú chơi và thời gian gớm. Người Việt mình còn uống trà xanh nữa, nghĩa là lấy lá chè già nhưng còn tươi chứ chưa sấy hay sao gì cả, hãm vào nước sôi ra nước màu vàng tươi rồi uống.
Trà sen Việt Nam
“Đến như loài người, muốn đỡ khát thì uống lấy nước, muốn tiêu sầu thì uống lấy rượu, còn muốn tỉnh mộng mê thì uống lấy trà.” (Lục Vũ)

Đặng Thái

Tại sao các tù nhân thời xưa lại yêu cầu hành quyết vào mùa thu và 3 giờ buổi trưa? Bí ẩn lớn đằng sau

Thời xưa, khi xử tử tội phạm thường bị xử tử vào “hạ thu”, thậm chí còn phải xử tử vào “ba giờ trưa”, thế giới bên ngoài hoang mang không hiểu vì sao người xưa lại có quy tắc "thu đông xử trảm"? Thậm chí phải chọn nó vào lúc 3:00 trưa? Trên thực tế, có rất nhiều bí ẩn đằng sau đó!

Ảnh minh họa.

Theo sổ sách ghi lại, hệ thống hành quyết có nguồn gốc từ thời nhà Chu. Ba tháng thu đông là tháng 7, 8, 9 âm lịch, cũng là 3 tiết của mùa thu. Điều này liên quan đến quan niệm thần quyền tự nhiên của người xưa, tức là tuân theo ý trời, xuân hạ là mùa vạn vật sinh sôi, thu đông là mùa cây cối khô héo, tượng trưng cho giá rét.

Đồng thời, mùa thu tương ứng với “vàng” trong ngũ hành, tức là vạn vật lúc này im lặng, sinh khí kém nhất, vàng tượng trưng cho dụng, đốn hạ, là đại diện cho sự hủy diệt. Tuy nhiên, nếu phạm tội lớn như phản quốc thì không bị giới hạn và có thể bị tử hình ngay lập tức.

Về thời điểm lựa chọn xử trảm vào "ba giờ trưa", tức là 11 giờ 45, có hai giả thuyết, thứ nhất, theo sử sách ghi lại, vào lúc ba giờ trưa, mặt trời ở tâm, và bóng trên mặt đất lúc này là thời kỳ ngắn nhất cũng là thời kỳ dương khí thịnh nhất, dương khí có thể trấn áp và xua tan âm khí, đề phòng hồn ma của tử tù ám ảnh. Việc hành quyết nên được tiến hành khi dương khí đang thịnh nhất.

Một cách nói khác là vì những tù nhân bị kết án được đưa đến nơi hành quyết rất sớm, họ không được ăn gì trong suốt thời gian đó, và họ sẽ không thể quỳ gối trong một thời gian dài sau khi đến đó. Hầu hết tù nhân đều đã kiệt sức, ánh mặt trời giữa trưa càng thêm chói mắt, khiến cho tù nhân mất trí, dù có bị chém đầu cũng không còn nhận thức được bao nhiêu, tự nhiên cũng không còn bao nhiêu sức lực để chống cự, tỷ lệ hành quyết thành công vào thời điểm này rất cao, và nỗi đau của tù nhân cũng có thể được xoa dịu.

Theo Hồ Yên/ Công Lý & Xã Hội


 





 

Không có nhận xét nào:

CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU SÓC TRĂNG THAM QUAN, ỦNG HỘ HOANGDIEUTRUONGXUASAIGON.BLOGSPOT.COM. CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM NHIỀU SỨC KHỎE, THÀNH CÔNG TRONG CÔNG VIỆC.