Vào những năm 1920, việc sử dụng loại sơn phát sáng trong đêm có chứa phóng xạ Radium trở thành một xu hướng phổ biến. Loại sơn này thường được sử dụng để sơn lên mặt đồng hồ, bảng điều khiển máy bay, và các thiết bị khác, giúp chúng phát sáng trong bóng tối mà không cần nguồn sáng phụ trợ.
Thời điểm đó, kiến thức về sự nguy hiểm của phóng xạ vẫn còn hạn chế, mặc dù Radium đã được phát hiện vào năm 1898 bởi bà Marie Curie và chồng bà, Pierre Curie, nhưng phải mất nhiều thập niên để các nhà khoa học hiểu rõ đầy đủ những tác hại của loại chất này.
Những nữ công nhân tại các nhà máy sản xuất đồng hồ - thường được biết đến với tên gọi “Radium Girls” - là người chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Công việc của họ là vẽ các con số và chi tiết nhỏ trên mặt đồng hồ bằng loại sơn chứa Radium. Để đảm bảo đường nét sắc sảo, họ thường được hướng dẫn sử dụng môi và lưỡi để liếm cho đầu cọ vẽ trở nên nhọn hơn trước khi nhúng vào sơn, lặp lại quá trình này hàng ngày.
Do không nhận thức được mối nguy hiểm của Radium, những người quản lý còn tuyên truyền rằng loại sơn này hoàn toàn vô hại. Một số nữ công nhân thậm chí còn dùng sơn để trang điểm lên mặt, móng tay, và răng của mình như một trò đùa, vì thích thú với ánh sáng phát ra từ cơ thể họ trong bóng tối.
Tuy nhiên, tác hại của Radium bắt đầu lộ rõ qua thời gian. Phóng xạ này từ từ tích tụ trong xương và mô cơ thể, gây ra những căn bệnh kinh hoàng như ung thư xương, hoại tử hàm, và các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khác. Nhiều phụ nữ bị đau đớn tột cùng khi xương của họ trở nên giòn, dễ gãy và bắt đầu thối rữa từ bên trong. Bệnh lý phổ biến nhất là “Jaw necrosis” (hoại tử hàm), nơi hàm của các công nhân bị mục rữa một cách khủng khiếp.
Các nữ công nhân đã đấu tranh pháp lý để đòi lại quyền lợi và công lý, dẫn đến một trong những vụ kiện lao động nổi tiếng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Cuối cùng, các công ty sản xuất đồng hồ bị buộc phải chịu trách nhiệm cho sức khỏe của công nhân và phải bồi thường thiệt hại.
Vụ việc “Radium Girls” không chỉ phơi bày sự nguy hiểm của Radium mà còn là bước ngoặt trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động, thúc đẩy việc ra đời các quy định an toàn lao động và bảo vệ sức khỏe trong các ngành công nghiệp liên quan đến phóng xạ.
Sưu tầm
Danh hài Charlie Chaplin kể lại một kỷ niệm đầy xúc động: "Khi tôi còn nhỏ, có lần tôi đi xem xiếc với cha. Chúng tôi xếp hàng mua vé, phía trước chúng tôi là một gia đình nghèo có sáu đứa trẻ. Các em nhỏ vô cùng háo hức khi nói về gánh xiếc. Khi đến lượt họ mua vé, người cha hỏi giá vé và nhân viên thông báo số tiền cần trả. Ông ấy thì thầm vào tai vợ với vẻ ngại ngùng.
Cha tôi đã nhìn thấy cảnh đó. Ông lấy 20 đô la trong túi, ném xuống đất rồi cúi xuống nhặt lên. Sau đó, ông đặt tay lên vai người đàn ông và nói: "Ông ơi, tiền của ông rơi xuống đây." Người đàn ông nhìn cha tôi, ánh mắt ngấn lệ và nói: "Cảm ơn ngài!"
Sau khi gia đình ấy bước vào rạp, cha tôi nắm tay tôi ra khỏi vì ông chỉ còn đúng 20 đô la mà ông đã đưa cho người đàn ông kia. Từ đó, tôi luôn tự hào về cha mình. Đối với tôi, khoảnh khắc ấy chính là chương trình đẹp nhất mà tôi từng được xem trong đời."
Sinh ra ở London, Anh, năm 1889, Chaplin phải vào sống trong trại tế bần từ năm 4 tuổi. Mẹ của ông - bà Hannah Chaplin vốn là một nữ ca sĩ.
Charlie Chaplin sớm bộc lộ năng khiếu diễn xuất. Năm 24 tuổi, chàng thanh niên nghèo lên đường sang Mỹ tìm kiếm cơ hội đổi đời.
Charlie Chaplin không có một dáng vóc lý tưởng, ông khá thấp, đầu khá to so với thân người nhỏ nhắn. Tuy vậy, Chaplin là một người đàn ông ưa nhìn với đôi mắt xanh sâu thẳm, mái tóc xoăn đen, hàm răng trắng bóng, làn da trắng sứ, đôi môi quyến rũ…
Chaplin nhanh chóng được gia nhập một đoàn kịch và đi biểu diễn các tiểu phẩm hài rong ruổi vòng quanh nước Mỹ. Chính lúc này, ông được người của một hãng phim để mắt đến. Kể từ đó, sự nghiệp của Chaplin bắt đầu rẽ sang một hướng khác, xán lạn hơn hẳn, chẳng mấy chốc Charlie Chaplin đã trở thành "vua hề" nổi tiếng được mọi người biết đến.
Nguyễn Thành Phương lược dịch



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét