“Màu Máu Ti-Gôn” là bài thơ nổi tiếng mà sinh viên một thời chép vào sổ tay. Về tác giả thì rõ ràng không ai phải bàn, nhưng người được đề tặng là TT.K.H là ai, thì có hàng trăm đồn đoán tranh luận. Nguyễn Vỹ đã bật mí điều này.
Năm 1936-37 xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người khác nữa. Ít ai để ý đến họ. Có lẽ vì họ là những người còn quá trẻ: Huyền Trân và Thâm Tâm mới 18, 19 tuổi, mới bắt đầu viết văn, chưa có gì đặc sắc. Lớp văn sĩ đi trước không chú ý đến họ. Nhưng họ dễ thương, vui vẻ, hồn nhiên, an phận ở một vị trí khiêm tốn, chẳng thân với ai, cũng chẳng làm phiền lòng ai. Họ sống một thế giới riêng của họ, không chung đụng với những nhóm đã nổi tiếng ít nhiều trong làng văn, làng báo lúc bấy giờ.
Họ có một tờ tuần báo nhỏ, lấy tên Bắc Hà ở phố Chợ Hôm, nơi đây họ làm văn nghệ với nhau, theo lối tài tử hơn chuyên nghiệp. Tờ báo bán không chạy lắm tuy có vài mục hài hước vui nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình và nhiều cố gắng hứa hẹn trên bình diện văn chương. Hăng hái nhất và đóng vai chủ động trong tờ báo là Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, biệt hiệu của Tuấn Trình, vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng một vài bài thơ, vài mẩu chuyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao ái tình của Nguyễn Bính, học sinh lớp Nhất, trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính sau thi rớt, nghỉ học luôn.
Tuy không chơi thân, tôi quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều, vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Thường đi một con đường nên chúng tôi gặp nhau và quen nhau. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo “cho vui” vì không có tiền nhuận bút. Để tỏ tình thông cảm văn nghệ, tôi có viết một truyện ngắn khôi hài và chỉ có một lần. Trong một số báo đặc biệt mùa hè, Tuấn Trình vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới: Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn.
Tôi quen biết Tuấn Trình do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sài Gòn có anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, giống na ná Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bonard Sài-Gòn, tôi quên lửng, cứ tưởng gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm, Hà Nội.
Một buổi chiều gần tối. Tuấn Trình đi lang thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tưởng anh ta đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo:”Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà”. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui. Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn-Điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.
Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp Nhất trường Tiểu học Sinh-Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh-Từ, ngay cạnh Thanh-Giám, nơi đền thờ Khổng Tử. Thanh – Giám là một thắng cảnh Hà-Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ dưới đời nhà Lê, hình chữ nhất, chung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước. Đền thờ ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ dựng nhiều tấm bia ghi tên các tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh-Giám, có cổng Tam Quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán: “Hạ Mã”, và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây kiểng. Nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về ngủ, cho nên người Pháp gọi là “Pagode des Corbeaux” (Chùa Quạ) ngoài danh từ lịch sử “Temple de Confucius” (Đền Khổng Tử).
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp, nét đẹp mơm mởm của cô gái dậy thì, thùy mị, nết na, nhưng không có gì đặc biệt. Tuấn Trình có người cô, nhà ở phố chợ Cửa Nam, gần Sinh-Từ. Anh thường đến đây và thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình (tên gọi hồi đó) mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi, thi rớt Tiểu học và đã nghỉ học từ mùa hè năm trước. Tuấn Trình mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất bản.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa Antigone trắng vừa chớm nở trong tháng đầu hè trước sân nhà cô. Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỷ, không thơm nhưng đẹp. Nó thuộc loại hoa dây, lá giống lá nho, cho nên ở miền Nam, nhiều người gọi là hoa nho. Nó có hai loại, loại hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa hè, thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà-Nội người ta trồng rất nhiều và bán rất nhiều trong chợ Đồng Xuân, cũng như ở chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách, nó buông ra một vẻ đẹp lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt hoa Ti-Gôn. Ở phố Sinh Từ Antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Nam Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng hoa tàn, thì không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.
Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm Antigone vừa hé nụ, và chết trong những ngày giữa mùa Đông năm đó, trong lúc giàn hoa Ti-gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân. Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng Hè, sang hết mùa Thu, không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình. Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu Thâm Tâm và cho cô Khánh biết: Hình ảnh của em, anh ghi sâu vào thâm tâm anh. Trong bài Màu Máu Ti-Gôn, cũng có câu: …Quên làm sao được thuở ban đầu – Một cánh ti gôn Dạ khắc Sâu.
Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng Khánh, những bài thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà, đều ký Thâm Tâm, các tranh vẽ trong báo vẫn ký Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt theo lễ giáo nghiêm khắc của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình – Thâm Tâm. Đó là điều đau khổ triền miên của chàng nghệ sĩ 19 tuổi. Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà-Nội và ngoại ô: Hồ Tây, chùa Láng, Bạch Mai, Phúc Trang, Đền Voi Phục…thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: “Thầy mẹ em nghiêm, gia đình em nghiêm lắm…” Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để trả lời kỳ vọng khát khao của người yêu.
Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lén băng qua đường, vào vườn Thanh-Giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cô Khánh run cả người (theo lời Tuấn Trình kể lại) cậu cũng lính quýnh, tất cả những câu bay bướm cậu sắp sẵn để nói với nàng, bấy giờ cậu quên mất hết. Một lúc lâu Tuấn Trình mới nói được mấy lời tình tứ, nhưng lại trách móc, nghi ngờ, nàng không yêu mình. Nàng bảo:”Em không yêu anh sao dám ra đây gặp anh?Nhưng vì thầy me em nghiêm lắm, anh ạ.” Tuấn Trình hỏi chua chát: “Giờ phút này chỉ có thơ và mộng, chỉ có anh với em, ánh trăng đẹp của hai đứa mình có nghiêm không nhỉ?”. Có lẽ vì bất bình câu nói mỉa mai của người yêu, Khánh lặng yên một phút rồi đáp:”Ánh trăng đẹp, nhưng vẫn nghiêm đấy, anh ạ”. Cuộc gặp đêm ấy, chỉ lâu không đầy một tiếng đồng hồ. Tuấn Trình đặt một chiếc hôn âu yếm trên bàn tay của Khánh trước lúc nàng vội vã chạy về nhà.
Lần thứ hai, hai cô cậu cũng gặp nhau trong vườn Thanh (nhiều người sau này nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật). Vườn Thanh-Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng Thu. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Chàng lặng lẽ vuốt mái tóc huyền của Khánh rồi khẽ bảo: Ước gì anh được yêu em như thế này mãi…Nàng buồn bã hỏi:”Anh định bao giờ đến xin thầy me cho chúng mình…” Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: “Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì…” Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây. Khánh không hỏi gì hơn nữa. Chàng nắm tay nàng đi dạo quanh hồ nước xanh rì lăn tăn gợn sóng, chàng dừng lại, khẽ kéo Khánh vào lòng, nhưng nàng khẽ buông ra, Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng:”Em!” Khánh mải cười:”Anh bảo gì?”.
-Hình ảnh của em, nụ cười của em, sẽ mãi mãi ghi sâu vào lòng dạ của anh, vào thâm tâm anh.
Trần Thị Khánh bẽn lẽn cười như để tạ ơn và xin từ giã. Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm. Khánh muốn giấu chàng một điều gì quan trọng chăng? Tình yêu giữa hai người vẫn nguyên vẹn, thư từ qua lại vẫn âu yếm, nhưng Tuấn Trình bắt đầu thấy lòng buồn bã băn khoăn khi giàn hoa Ti-gôn bắt đầu héo rụng trong nắng úa tàn thu. Thế rồi một hôm, chàng họa sĩ đa tình nhận được một bức thư của người yêu, không, của người hết yêu, báo tin nàng sắp lấy chồng.
Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương hoàng hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ). Thư do một cô bạn gái của Khánh đem đến tòa báo Bắc Hà trao tận tay Tuấn Trình. Cô bạn gái hỏi “ông Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm. Ngoài bao thư cũng đề: Monsieur Tuấn Trình (chữ Mr. bằng tiếng Pháp), nét chữ quen thuộc của T.T. Khánh. Đại khái, Khánh nhắc lại tình yêu “thơ mộng” của cô với “người nghệ sĩ tài hoa son trẻ” (những chữ cô dùng trong thư), tình yêu rất đẹp, nhưng vì thầy me của cô rất nghiêm, theo lễ giáo, nên dù người vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi, nhưng cô vẫn có bổn phận “giữ tròn chữ hiếu, không dám cãi lời thầy me đặt đâu ngồi đấy v.v…” Cô nói cô buồn lắm vì tình yêu dang dở, “Em yêu anh mãi mãi! Không bao giờ quên anh, nhưng ‘van’ anh đừng giận em, thương hại em, chứ đừng trách móc em v.v…” Cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm v.v…
Khánh không nói một câu nào về người vị hôn phu, không cho biết ngày cưới, và cuối thư ký tắt: K.H. Bức thư của K.H chấm dứt một cách đột ngột cuộc tình duyên thật sự không mấy “thơ mộng” của họa sĩ Tuấn Trình và cô Trần Thị Khánh.
Sau do sự dọ hỏi vài người quen ở phố Sinh-Từ, Tuấn Trình được biết chồng cô Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, góa vợ và không có con. Trong câu thơ:”Bên cạnh chồng Nghiêm luống tuổi rồi “ chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng với tuổi hãy còn vị thành niên của cô Khánh. Đó chỉ là nhận xét chủ quan và mỉa mai của Thâm Tâm, so sánh tuổi mình 20 với người đàn ông được diễm phúc làm chồng cô Khánh, nhưng trên thực tế và theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình thì người chồng cô Khánh “giàu sang và trẻ đẹp” chứ không phải một ông già. Tuấn Trình cũng nhìn nhận rằng một người nhà giàu 40 tuổi, đẹp trai, không thể là một ông già.
Đám cưới đã nhờ mối lái qua lại từ lâu, và đồ sính lễ có kiềng vàng, xuyến, nhẫn, vòng, kim cương, quần áo hàng lụa quí giá. Rước dâu bằng mười chiếc Citroen mới, cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo cưới màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi trên xe hoa như nàng công chúa ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh. Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm có tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai Quế Lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa, ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất. Người đau khổ trong cuộc tình duyên dang dở này không phải là cô Khánh. Trái lại, cô có đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô. Trần Huyền Trân đã gặp cô đi hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche Neige (kem Bạch Tuyết), Bờ Hồ hai lần. Hai ông bà nhìn nhau và cười với nhau ra vẻ âu yếm lắm. Khánh đã có thai, được chồng săn sóc nâng đỡ lên chiếc xe nhà Citroen, lúc ra về, còn đi một vòng quanh hồ Hoàn Kiếm. Trần Huyền Trân kể lại cảnh âu yếm đó cho Tuấn Trình nghe và kết luận:” Con Khánh nó cho cậu leo cây, cậu còn si nó làm gì nữa, thêm tủi nhục”. Người đau khổ dĩ nhiên là Tuấn Trình, Thâm Tâm. Chàng yêu nhớ đơn phương với mặc cảm của một nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.
Vì một chút tự ái văn nghệ, đối với mấy người kia, Tuấn Trình đã phải thức một đêm, theo lời anh, làm một bài thơ đề là “Hai Sắc Hoa Ti Gôn” ký T.T.KH, với thâm ý để Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm, để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Trình dán kín bao thư rồi nhờ cô em họ, con gái của người cô ở phố Cửa Nam, mang thư đến tòa báo. Cũng chính cô em họ đó đã chép giùm bài thơ với nét chữ con gái dịu dàng của cô, để khỏi bị nghi ngờ. Cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình, và lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của KH, báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Cô chưa bao giờ làm thơ cả! Và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác. Tuấn Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy, sau khi nhận được một bức thư của Khánh, bức thư cuối cùng, tỏ ý không bằng lònganh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong thư phản đốiđó, Khánh xưng tôi, chứ không xưng em như những thư trước, để chấm dứt trò chơi vô ích ấy. Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra “Bài Thơ Cuối Cùng”: Trách Ai mang cánh ti gôn ấy – Mà viết tình xưa Được Ích Gì? – Bài Thơ đan áo nay Rao Bán – Cho Khắp Người đời thóc mách xem – Là Giết Đời nhau đấy, Biết Không? – Dưới dàn hoa máu, tiếng mưa rung – Giận anh tôi viết dư dòng lệ– Là chút dư hương điệu cuối cùng – Từ nay anh hãy Bán Thơ Anh– Và Để Yên Tôi với một mình – Những cánh hoa lòng, Hừ Đã Bỏ– Còn đem mà Đổi Lấy Hư Vinh. Cô Khánh “Trách” người cũ không những đem chuyện tình xưa ra viết chẳng “Được Ích Gì” lại còn làm Bài Thơ đi “Rao Bán” cho người đời “Thóc Mách” mua xem. Như thế là Anh “Giết Đời Tôi anh Có Biết Không?” Anh đem bán thơđể kiếm chút “Hư Vinh” nhưng chuyện xưa đã bỏrồi, anh hãy để tôi yên!…
Thâm Tâm lấy gần hết chữ và nghĩa trong bức thư đoạn tuyệt tàn nhẫn của Trần Thị Khánh làm Bài Thơ Cuối Cùng đó mà vẫn ký T.T.Kh, một lần cuối cùng. Rồi, để đáp lại, chàng làm một bài ký tên Thâm Tâm và cũng là bài cuối cùng, mỉa mai, chua chát: …Đây Bài Thơ Chót Kính Dâng Tặng Bạn– Và thành chúc đời em luôn tươi sáng – Như mộng kiều đầm ấm tuổi xuân xanh – Như hương trinh bát ngát dịu dàng – Hoa nhạc mới triều dâng tơ Hạnh Phúc…
Trên phương diện văn thơ cũng như tình cảm, ta chỉ thương hại Thâm Tâm, nhà thơ trẻ, hãy còn ngây thơ với tuổi 19, đầy thơ mộng, cứ tưởng rằng cô Khánh vẫn thành thật yêu chàng, rằng cô bị cha mẹ ép gả cho một “ông già”, nhưng cô vẫn giữ mối tình thiêng liêng chung thủy với người nghệ sĩ tài hoa. Cho nên tưởng làm vui lòng người yêu, chàng lấy tên nàng để ký dưới bài thơ thương tiếc, với những câu tình tứ như: Từ đấy thu rồi thu lại thu – Lòng tôi còn giá đến bao giờ? – Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ – Người ấy cho nên vẫn hững hờ – Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng – Trời ơi người ấy có buồn không? – Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ – Tựa trái tim phai, tựa máu hồng – Cho tôi ép nốt dòng dư lệ – Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Nhưng chàng thi sĩ có ngờ đâu không những cô Khánh không hề tỏ chút gì cảm động vì mối tình đau khổ, thủy chung của chàng, hoặc cảm ơn những bài thơ an ủi của chàng, mà trái lại cô còn gởi một bức thư vô cùng tàn nhẫn hằn học nào là “Anh giết đời tôi, anh biết không?” nào là anh mang chuyện cũ ra viết “chẳng ích gì”, cô lại còn tỏ ý khinh rẻ: “Từ nay anh cứ đem thơ anh bán rao để kiếm chút hư vinh, nhưng anh hãy để tôi yên” v.v…Bấy giờ Thâm Tâm mới thức tỉnh, tìm lời bào chữa cho mình!Nào là: …Anh biết cái gì xưa đã chết – Anh càng buồn, càng muốn viết thành thơ– Nhưng thôi: Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ – Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn. Thâm Tâm tự hạ mình viết kính dâng tặng bạn có ý xin lỗi chua chát người không phải là người yêu của mình nữa, và chàng đã viết: Chim muốn bay, cũng giữ chẳng được nào!(Nàng đã không muốn yêu nữa, thì giữ làm sao được?). Và: Có gì đâu, khi bướm muốn xa cành !.
Thâm Tâm không những đã tỉnh ngộ, mà lại còn uất hận vì thái độ khinh bạc của cô Khánh: …Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá – Nhưng lòng Anh đã Bình Thản lại rồi – Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi – Niềm Uất Hận của một thời lạc lối – Lấy nghệ thuật làm trò hề múa rối – Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền – Để khẩn cầu xin một nụ cười duyên.
Thâm Tâm tự thú nhận: Lấy nghệ thuật văn thơ để làm trò hề múa rối, (vì sự thật chẳng có gì cả) trong mấy bài thơ ký tên T.T.KH với mục đích “Đem tài hoa cung phụng sóng mắt huyền, để khẩn cầu xin một nụ cười duyên”. Để rồi, mai mỉa thay, nhận những lời khinh khi ngạo mạn, và hằn học của nàng. Đó là “niềm uất hận” của Tuấn Trình trong một thời “lạc lối” (lầm đường lạc lối). Nhưng: Thôi em nhé, từ đây anh cất bước – Em yên lòng vui hưởng cuộc đời vui… Chàng hứa chấm dứt trò hề múa rối về văn thơ. Và nàng không mong gì hơn.
Để tôn trọng thực tế những sự kiện đã qua trong lịch sử hay trong văn học, để đừng xuyên tạc những chuyện không có, phải nói ngay rằng tên T.T.KH. không hề gợi một dư luận nào “xôn xao” ở thời tiền chiến, và cuộc tình duyên của Tuấn Trình (Thâm Tâm) với cô Trần Thị Khánh không hề gây một xúc động nào về tâm lý cũng như về văn chương trong giới văn nghệ và giới trẻ thời bấy giờ.
Tôi chắc rằng những nhà văn thơ tiền chiến ở Hà Nội hiện còn sống tại Sài-Gòn, như các anh Vi Huyền Đắc, Lê Tràng Kiều, Tchya, Vũ Bằng…(cả các anh Nhất Linh và Lê Văn Trương vừa tạ thế mấy năm trước) đều phải hết sức ngạc nhiên thấy một vài người của thế hệ hậu chiến ở Sài-Gòn bỗng dưng tôn sùng ba tên T.T.KH thành một thần tượng và biến mối tình rất tầm thường, có thể nói là quá tầm thường của cô học trò cũ trường tiểu học Sinh-Từ, thành một thảm kịch của tình yêu.
Nguyễn Nhược Pháp, nhà ở gần nhà cô Khánh, chỉ cách năm, sáu căn, mà cũng không hề nghe nói đến cô này, và cũng không biết một tí gì về mối tình của một họa sĩ kiêm thi sĩ Tuấn Trình hay Thâm Tâm, xảy ra cùng dãy phố với anh.
Cũng như người đàn bà tên Mộng Cầm, hiện là vợ một giáo chức ở Phan Rang, đã phủ nhận những chuyện người ta thêu dệt về mối tình bạn của bà, lúc còn là nữ y tá, với thi sĩ Hàn Mặc Tử :” Tôi không thể yêu được một người bị bệnh cùi !” Bà Mộng Cầm đã thẳng thắn nói thế, không thể trách bà được.
Sưu Tầm
Mạc Kính Điển: Thần Hộ Mệnh Của Nhà Mạc
Mạc Đăng Dung (Mạc Thái tổ) là người tạo dựng nên vương triều nhà Mạc, nhưng sau ông, người có công lớn nhất trong việc gánh vác giang sơn triều Mạc lại là một người không ngồi trên ngai vàng – đó là Mạc Kính Điển – con thứ ba của Mạc Đăng Doanh. Khi mới sinh ông hay ốm đau, sài đẹn, nhưng sau này lại là một dũng tướng, một nhà chính trị thao lược tài ba.
Mạc Đăng Dung chỉ ở ngôi 3 năm thì nhường cho con là Mạc Đăng Doanh, còn mình làm Thượng hoàng và mất khi mới 59 tuổi. Mạc Đăng Doanh làm vua được 10 năm thì bị bệnh chết. Con trưởng là Mạc Phúc Hải lên làm vua và cũng chỉ ở ngôi được 5 năm thì mất. Triều đình nhà Mạc bắt đầu xảy ra chuyện tranh giành ngôi vị.
Mạc Kính Điển được anh là Mạc Phúc Hải gửi gắm phò trợ con thơ còn nhỏ tuổi là Mạc Phúc Nguyên lên nối ngôi. Nhưng giữa triều, Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi lên tiếng: “Hiện nay trong lúc thiên hạ rối loạn, triều đình nên lập vua lớn tuổi để điều hành. Người đó phải là con thứ của Thái tổ tức Hoằng Vương Chính Trung, người đã nhiều phen cầm quân chinh chiến”. Mạc Kính Điển cùng các tướng Nguyễn Kính, Lê Bá Li không nghe, vẫn tuân theo di chiếu của vua trước, tôn Mạc Phúc Nguyên lên làm vua.
Phạm Tử Nghi bất mãn bèn cùng Mạc Chính Trung khởi loạn. Chính Trung tự xưng tôn hiệu và được một số quần thần đi theo, lực lượng khá hùng mạnh, đánh vào kinh đô. Triều đình phải đưa Mạc Phúc Nguyên đi lánh nạn. Mạc Kính Điển và Nguyễn Kính khởi binh đánh Phạm Tử Nghi, ban đầu bị thất thế, nhưng sau đó tập trung được các đạo quân thủy bộ, tấn công làm quân của Phạm Tử Nghi tan vỡ. Mạc Chính Trung và bộ sậu chỉ còn hơn một trăm người chạy sang Khâm Châu và Quảng Đông (Trung Quốc) làm loạn bên đó. Nhà Minh lúng túng đối phó, sai người sang trách cứ nhà Mạc. Mạc Kính Điển cử quân vây ép, Phạm Tử Nghi phải đưa Chính Trung trở lại vùng Yên Quảng. Mạc Kính Điển đem quân bao vây và sai người lừa bắt được Phạm Tử Nghi đem chém. Mạc Chính Trung lại trốn sang Trung Quốc và chết ở đó.
Mạc Kính Điển đã mười phen cầm quân tiến đánh vào Thanh Hoa (Thanh Hóa), căn cứ địa của quân Lê – Trịnh. Ngược lại, Trịnh Kiểm cũng đã sáu phen tiến quân ra Bắc mà kết quả vẫn chưa phân thắng bại. Năm 1551, do mâu thuẫn trong triều, Lê Bá Li đem quân về theo nhà Lê làm cho lực lượng nhà Mạc bị tổn thất nặng nề. Trịnh Kiểm mở cuộc tấn công bao vây, đánh chiếm được kinh thành. Mạc Kính Điển phải bảo vệ đưa xa giá vua an toàn sang sông lánh về Kim Thành (Hải Dương) và ông quay trở lại đốc thúc quân chống cự buộc Trịnh Kiểm phải rút quân về Thanh Hoa.
Năm 1557, Mạc Kính Điển lại đánh phá các nơi ở xứ Nghệ. Quân Trịnh dùng tượng binh tập kích phía sau. Một tướng Trịnh nhảy qua thuyền đâm Mạc Kính Điển, ông nhảy xuống sông thoát chết. Mạc Kính Điển phải lẩn trốn trong hang núi Dân Sơn, nhịn đói suốt ba ngày đêm, sau đó ôm cây chuối xuôi dòng trốn thoát được về. Năm 1562, Mạc Tuyên Tông mất, con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên nối ngôi. Mạc Kính Điển cử người em út là Mạc Đôn Nhượng làm nội phụ chính giúp lo đỡ việc bên trong để ông tập trung lo việc quân cơ bên ngoài. Tháng 10/1580, Mạc Kính Điển mất.
Sau khi Thái tổ Mạc Đăng Dung mất, Mạc Kính Điển là trụ cột lớn nhất của triều đình nhà Mạc và sau khi ông mất thì không có người thay thế xứng đáng. Ông mất đi nhưng ảnh hưởng của ông đối với người trong nước vẫn còn, người ta nhớ đến ông mà không nhớ Mạc Mậu Hợp. Tuy nhiên, cái chết của Mạc Kính Điển là tổn thất không thể bù đắp với nhà Mạc. Bởi vậy chỉ hơn 10 năm sau khi ông mất, nhà Mạc bị vua Lê – chúa Trịnh đánh bại vào năm 1592..
Lời bàn về Mạc Kính Điển
Việc nhà Mạc thay thế nhà Hậu Lê không còn đủ năng lực và bị thiên hạ chán ghét khi đó là tất yếu của sự phát triển của lịch sử. Và nếu dòng họ Mạc không nổi dậy thì các dòng họ thế tộc khác cũng làm điều tương tự trong bối cảnh lúc đó. Theo sử sách, thời Mạc không có một cuộc khởi nghĩa nông dân nào. Điều đó cho thấy nhà Mạc được lòng dân. Mặc dù nắm triều chính chỉ có 66 năm (1527-1593) nhưng nhà Mạc đã để lại nhiều dấu ấn và chứng tích oanh liệt trong lịch sử. Và người có công lao to lớn đối với sự phát triển và tồn vong của nhà Mạc là Mạc Kính Điển. Tài năng, đức độ của Mạc Kính Điển chẳng những khiến người trong triều Mạc tôn kính mà ngay phía đối phương cũng phải nể sợ.
Theo sử cũ thì tuy không một ngày ngồi trên ngai vàng, suốt đời Khiêm vương Mạc Kính Điển đã cúc cung tận tụy giữ cho ba đời vua Mạc đứng vững giữa phong ba bão táp. Cho dù nhà Mạc là kẻ thù không đội trời chung với nhà Hậu Lê, thế nhưng trong sách Đại Việt sử ký toàn thư do các sử gia nhà Lê soạn đều đã thừa nhận rằng: Mạc Kính Điển là người nhân hậu, dũng lược, thông minh, tài trí, nhạy bén, hiểu đời, từng trải nhiều gian nan nguy hiểm, cần lao, trung thành. Còn trong sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn cũng ghi nhận: Mạc Kính Điển là người nhân hậu, linh mẫn, dũng cảm có thừa. Vâng, với cuộc đời của một con người thì có lẽ chẳng còn lời đánh giá tốt đẹp nào hơn được nữa.
Đ.T (Theo Báo Bình Phước)
Hẻm núi Rhein
Hẻm núi Rhein, hay còn được gọi là Thượng Thung lũng Trung lưu sông Rhein, nằm ở miền Tây nước đức. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 2002 nhờ sự kết hợp độc đáo giữa địa chất, lịch sử và văn hóa.
Khi đến đây, du khách có thể khám phá các nhà máy bia rượu truyền thống, tham quan một số lâu đài như Katz, Stolzenfels, Marksburg, Pfalzgrafenstein… hay đi du ngoạn bằng thuyền trên sông Rhine.
Thành phố Cologne
Thành phố Cologne được biết đến với khí hậu trong lành, cùng nhiều di tích lịch sử. Biểu tượng của Cologne là nhà thờ chính tòa Cologne, được xây dựng từ thế kỷ 13, đây cũng được xem là nhà thờ lớn nhất nước Đức.
Ngoài ra, du khách cũng có thể tham quan bảo tàng Romisch-Germanisches với bộ sưu tập về nghệ thuật châu Âu từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 19.
Bờ biển Baltic
Biển Baltic là một nhánh của Đại Tây Dương và cũng là vùng nước lợ nội địa lớn nhất trên thế giới. Đức là một trong 9 quốc gia có lãnh thổ giáp với biển Baltic. Bờ biển Baltic tại Đức có những đoạn lõm vào, tạo ra những vách đá ấn tượng.
Những điểm nổi bật tại bờ biển Baltic ở Đức bao gồm thành phố cảng Stralsund với công trình kiến trúc cổ điển bằng gạch đỏ, những vách đá dựng đứng tại công viên quốc gia Jasmund trên đảo Rugen và bán đảo Fischland-Darss-Zingst.
Làng Rothenburg ob der Tauber
Trong tiếng Đức, làng Rothenburg ob der Tauber có nghĩa là “phía trên sông Tauber”. Đây là một ngôi làng đã tồn tại từ thời trung cổ với những tòa nhà cổ kính và đường đi được lát đá cuội.
Du khách có thể ghé thăm bảo tàng Reichsstad, tu viện Dominica hay đến Nhà thợ thủ công cổ Rothenburg – nơi những thợ thủ công đang miệt mài làm ra những tác phẩm thủ công mỹ nghệ với lịch sử hơn 700 năm.
Thành phố Munich
Munich là thủ phủ của bang Bayern, cái nôi của nền văn hóa cổ điển Đức. Thành phố lớn thứ ba của Đức còn là trung tâm sản xuất công nghệ cao đồng thời là cửa ngõ dẫn vào dãy núi Bavarian Alps hùng vĩ.
Ảnh: Nguyễn Nguyễn Quang Nhật
Các điểm tham quan nổi bật tại đây gồm cung điện München và cung điện Nymphenburg tồn tại từ thế kỷ 17. Du khách cũng có thể di chuyển về phía Nam, tham quan các ngôi làng cổ bên dãy núi Bavarian Alps. Thời điểm lý tưởng để đến đây là vào tháng 9 và 10, khi lễ hội bia được tổ chức với nhiều hoạt động thú vị.
Thành phố Weimar
Weimar tuy là thành phố nhỏ nhưng có rất nhiều điều hấp dẫn để khám phá, nhất là về văn hóa và lịch sử. Thành phố này đạt danh hiệu thủ đô văn hóa của châu Âu vào năm 1999.
Ở Weimar, du khách có thể dành thời gian đến bảo tàng quốc gia Goethe, bảo tàng Bauhaus và thư viện Herzogin Anna Amalia Bibliothek, di sản thế giới được UNESCO công nhận.
Rừng Đen (Schwarzwald)
Giáp biên giới Pháp và Thụy Sĩ, Rừng Đen (Schwarzwald) là một khu rừng rộng lớn với diện tích hơn 6.000km². Du khách có thể khám phá những sườn thung lũng sâu với các hồ nước, những ngôi làng và trang trại truyền thống bằng ô tô, xe đạp hoặc đi bộ.
Du khách cũng có thể lái xe dọc theo Schwarzwald Hochstrasse (đường cao tốc Rừng Đen) để ngắm cảnh nếu không có nhiều thời gian. Khi đến đây, khách du lịch không nên bỏ qua các món ăn truyền thống như schwarzwalder kirschtorte (bánh kem Rừng Đen), schwartzwalder schinken (thịt hun khói) hay xúc xích đỏ.
Thành phố Berlin
Thành phố Berlin là thủ đô và cũng là thành phố đông dân nước Đức, nổi tiếng với các bảo tàng, di tích lịch sử và ẩm thực đa dạng.
Du khách có thể lựa chọn tham quan các di tích như bức tường Berlin, đảo Bảo tàng, cổng thành Brandenburg. Ngoài ra, khách du lịch cũng có thể hòa mình vào các quán bia địa phương, tham dự các phiên chợ ngoài trời, nghe nhạc sống trên đường phố.
Theo Lonely Planet/Gia Nghi
i đến Đức –m đến nên ghé thăm khi đến Đức –
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét