.

.

a

Hoa đào nở, chim én về, mùa xuân lại đến. Chúc quý thầy cô và anh chị em đồng môn năm mới Giáp Thìn : - nghìn sự như ý, vạn sự như mơ, triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc.
THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ, ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU - MỘT NĂM MỚI AN KHANG THỊNH VƯỢNG - VẠN SỰ NHƯ Ý

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2022

Phát hiện con tàu đắm sâu nhất thế giới ngoài khơi Philippines

 

Một tàu khu trục của Hải quân Mỹ bị đánh chìm trong Thế chiến II đã được tìm thấy ở độ sâu gần 7.000 m ngoài khơi Philippines, trở thành tàu đắm sâu nhất thế giới cho tới nay.

Ông Victor Vescovo, người sáng lập Công ty công nghệ dưới đáy biển Caladan Oceanic, cho biết con tàu ở độ sâu 6.895 m so với mực nước biển, vụ đắm tàu sâu nhất từng được con người định vị và khảo sát, AFP đưa tin ngày 25/6.

Xác con tàu được tìm thấy là tàu khu trục USS Samuel B Roberts, hay còn được gọi bằng cái tên Sammy B, bị đánh chìm trong trận chiến ngoài khơi đảo Samar vào ngày 25/10/1944 giữa lực lượng Mỹ và Nhật Bản.

Con tàu Sammy B nằm ở độ sâu 6.895 m ngoài khơi Philippines. Ảnh: AFP.

Trước khi tìm thấy Sammy B, xác tàu USS Johnston ở độ sâu 6.469 m vào năm 2021 là con tàu đắm sâu nhất thế giới được con người xác định, cũng do nhóm thám hiểm của ông Vescovo thực hiện.

Công ty của công Victor Vescovo đã thực hiện chuyến thám hiểm 8 ngày quay phim, chụp ảnh và khảo sát phần thân tàu bị dập nát của Sammy B. Nhóm thám hiểm đã xác định các mảnh vỡ của một bệ phóng ngư lôi ba ống của con tàu.

Theo CNN, Sammy B từng chiến đấu với tàu Yamato - con tàu chiến lớn nhất từng được chế tạo. Đồng thời, chính Sammy B đã đóng góp lớn trong chiến thắng của Hải quân Mỹ trước Nhật Bản trong trận chiến gần đảo Samar.

Một bệ phóng ngư lôi ba ống của tàu Sammy B. Ảnh: AFP.

Tuy nhiên, trong trận giao tranh ngày 25/10/1944, Sammy B là một trong bốn tàu của Mỹ bị đánh chìm.

Theo hồ sơ của Hải quân Mỹ, thủy thủ đoàn của Sammy B đã "trôi nổi gần ba ngày để chờ giải cứu, nhiều người bỏ mạng vì các vết thương hoặc bị cá mập tấn công". Đã có 89 người trong tổng số 224 thủy thủ đoàn thiệt mạng.

Trong tương lai, kỷ lục của Sammy B có thể bị phá vỡ khi nhóm thám hiểm cũng phát hiện ra tàu USS Gambier Bay chìm ở độ sâu hơn 7.000 m. Tuy nhiên, người ta tạm thời vẫn không thể định vị chính xác vị trí của con tàu này.

Lan Phương

Rượu ngon, đắt tiền, rẻ tiền


Kết quả công bố của cuộc thi rượu chát quốc tế " Sydney International Wine Competition" tuần qua (26/11/2014) đã khiến cho cả giám khảo cũng phải ngạc nhiên :"Ngon dzậy mà sao rẻ dzậy !!!"
Trong danh sách top-100 của 2000 chai rượu dự thi, có đến 6 chai rượu rẻ tiền của Aldi lọt vào mắt xanh của 14 giám khảo uy tín của Úc và quốc tế. Đó là các chai rượu Cabernet Sauvignon (của vùng South East Australia- $6.99), Semillon($9.99), El Toro Macho Tempranillo($4.99), Byrne & Co Semillon.

Đặc biệt chai Tudor Central Victorian Shiraz 2013 mà Aldi bán với giá $12.99 vượt qua 1000 đối thủ , nhận hai giải "Best red table wine" và " Best lighter-bodied dry red table wine", cùng hạng với Wynns Coonawarra Estate C.E. Black Label Shiraz và Yalumba Paradox Barossa Shiraz, cả hai chai này có giá $45.
Trong khi đó chai Musigny Premier Cru  Champagne  mà Aldi bán với giá $29.99 là loại chát trắng ngon nhất.
Như vậy thì những kẻ thừa tiền, thường khoe đẳng cấp lịch lãm của mình qua việc "chỉ uống rượu đắt tiền", chưa hẳn là tay sành rượu.


Trong các cuộc thi rượu, các giám khảo nếm rượu theo kiểu "blind testing", tức là các nhãn hiệu trên chai đều bịt kín, những ly rượu trước mặt họ chỉ được đánh dấu bằng mã số, do đó việc thẩm định phẩm chất từng loại rượu chỉ căn cứ vào con mắt, lỗ mủi và cái lưỡi của họ, từ màu sắc của rượu đến hương, vị ở đầu lưỡi, dư vị đọng lại trong cuống họng và cho điểm theo mỗi thứ hạng này. Mỗi giám khảo có thể có cách thưởng thức khác nhau và cuối cùng điểm số cho từng loại rượu sẽ tổng kết lại và đó là sự đánh giá công bằng nhất.

 
Thực ra những kết quả chưng hửng trong cuộc thi tại  Sydney  tuần qua không lạ. Năm 1976, thế giới ngạc nhiên và cả trưởng ban tổ chức cuộc thi cũng đã chưng hửng. Đó là cuộc thi The Paris Wine Testing hay còn gọi là Judgment of Paris do nhà buôn rượu người Anh tên Steven Spurrier tổ chức.
Cuối cùng, khi các kết quả công bố ai cũng bật ngửa vì chai rượu được nhiều điểm nhất , được huy chương vàng, lại không phải là một loại rượu lẫy lừng nào của Pháp, mà là một chai rượu Mỹ-của nhà sản xuất Stags' Leap Wine Cellars ở Napa Valley, tiểu bang California. Rượu này được ủ năm 1973, rồi 2 năm sau ngâm trong thùng gỗ sồi và một năm đóng trong chai đặt dưới hầm, nó được đưa sang Pháp và đã qua mặt các chai Chardonnay và Cabernet Sauvignon thượng hạng ở vùng  Bordeaux  của Pháp.


Điều này gây ngạc nhiên cho nhà tổ chức Spurrier, vốn chỉ kinh doanh rượu Pháp và tin rằng vang  California  chẳng thể nào qua mặt được. Từ khởi điểm này mà kỹ nghệ rượu vang California vươn lên và đến nay có hơn 1200 xưởng chế biến rượu chát tại California, từ các cơ sở nhỏ đến các đại công ty như E & J Gallo Winery có mức phân phối toàn cầu.

 
Rượu đắt tiền
 
Rượu đắt tiền chưa chắc đã ngon và rượu ngon không nhất thiết phải đắt. Tuy nhiên phải thừa nhận là những chai rượu rất đắt tiền thì phải ngon. Thí dụ chai Penfolds Grange sản xuất năm 1959 khiến ông Barry O'Farrell mất chức thủ hiến tiểu bang Victoria, chai này trị giá 3000 Úc kim vào tháng 4/2011 và hiện được bán tại tiệm Dan Murphy với giá 4,850 Úc kim.

Chắc chắn chai này phải ngon, nhưng vấn đề đặt ra là tại sao rượu này lại đắt như vậy? Cũng như bao sản phẩm khác, rượu đắt tiền xuất phát từ hai yếu tố chính : chi phí sản xuất và yếu tố tâm lý.
Muốn làm một chai rượu ngon, người ta phải chi phí nhiều hơn cho mỗi giai đoạn, trước cả khi hái nho trên cây.
Đầu tiên là phải đầu tư vào những thửa đất trồng nho, phải có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu tốt, có độ cao, độ ẩm, độ dốc và chiều ánh nắng thích hợp. Chỉ những ruộng nho như vậy mới cho ra những chùm nho chứa đầy đủ các hợp chất, khoáng chất cần thiết để rượu được đậm đà thơm ngon. Dĩ nhiên những ruộng nho loại này thì giá tiền cao.

Thứ hai là phải hạn chế sản lượng nho vì "Quý hồ tinh, bất quý hồ đa". Để có rượu ngon thì chủ nhân phải hạn chế số lượng nho hái được trên cánh đồng của mình và phải cắt bỏ rất nhiều chùm nho xanh mới nở, chỉ để lại một số chùm khỏe nhất. Lý do là vì cây nho chỉ có thể hút lên từ lòng đất một số hạn chế các khoáng chất để nuôi dưỡng trái nho. Nếu nó phải nuôi trên 30 chùm nho, các khoáng chất bị phân tán mỏng, phẩm lượng của trái nho sẽ giảm xuống... Nhưng nếu nó chỉ nuôi 10 chùm nho thôi, chất bổ sẽ tập trung lại làm cho nước nho đậm đặc vì có đầy đủ chất khoáng, chất đường, chất chua, chất đạm.

 
Nhưng làm như vậy số nho thu hoạch được sẽ chỉ còn một nửa và giá thành sẽ cao hơn nữa.

 
Thứ ba là nhân công : nho tốt thì phải có chuyên viên lành nghề chế biến. Viên kim cương to thì phải giao cho thợ lành nghề mài, nho ngon mà đưa tay lơ tơ mơ thì chẳng khác nào dùi đục chấm nước cáy. Do đó nhà sản xuất phải chi tiền thật nhiều để thuê mướn những thợ làm rượu (winemakers) giàu kinh nghiệm và sáng tạo.

 
Ngoài ra nho ngon thì phải hái bằng tay, phải đến từng dây nho để lựa chọn chùm nho nào chín mọng mới hái, chùm nào còn xanh phải để chờ đủ chín rồi mới hái một đợt thứ nhì. Hái bằng máy thì rất nhanh nhưng lẫn lộn nho xanh, nho chín, và rượu làm ra sẽ không có hương vị thuần nhất được.


Thứ tư là chi phí ứng biến với thời tiết. Khi hái nho ở những nông trại trong mùa nắng gắt thì phải tránh lúc mặt trời phả hơi nóng, do đó phải hái từ sáng sớm khi mặt trời chưa mọc hay vào ban đêm , khi mặt trời đã lặn và trái nho đã mát dịu. Nếu hái ban ngày, trái nho bị ánh sáng thiêu đốt làm nóng chất nước ở bên trong, rượu sẽ có vị gắt, khó uống. Nhưng thuê nhân công làm việc sáng sớm hay ban đêm thì phải trả công cao hơn, chưa kể phải bố trí đèn điện và nghĩa là phải thêm chi phí. Tại vùng  Bordeaux , khi nho đang nở hoa, kết trái hoặc gần chín mà gặp thời tiết băng giá thì phải đốt lửa suốt đêm trong vườn để sưởi ấm cho nho. Có khi chủ nông trại còn thuê trực thăng bay qua bay lại bên trên các vườn nho để quạt hơi ấm xuống cho tan băng giá.

 
Thứ sáu là tiền tồn kho, tiền lãi ngân hàng. Sau khi lên men thì rượu bình thường chỉ cần trữ vài tháng là đã có thể mang ra tiêu thụ, nhưng còn rượu thượng hạng phải được ủ trong thùng gỗ sồi vài ba năm rồi mới vô chai, sau đó phải trữ trong hầm mát một hai năm nữa để chất tanning dịu đi, lắng xuống, các thành tố trong rượu có đủ thời giờ hòa lẫn và kết chặt lại với nhau tạo nên những hương vị đặt biệt rồi mới có thể đưa ra thị trường .Dĩ nhiên giá thành sẽ tính thêm tiền tồn kho và tiền lãi từ số vốn đã đầu tư.

 
Thứ bảy là quy luật cung cầu. Rượu sản xuất như vậy thì rất hiếm, mà của hiếm là của đắt.

 
Thứ tám là yếu tố tâm lý. Khi giới trọc phú ngày càng mọc ra nhiều thì càng đua chen để "hơn nhau tiếng gáy", như kiểu các "đại gia" mới nổi tại Trung Quốc hay Việt  Nam , không tiếc tiền để chứng tỏ bản lĩnh và sự sành điệu của mình. Trước các khách hàng như vậy thì các nhà sản xuất và phân phối dại gì mà không nâng giá : chúng mày thừa tiền, muốn khoe giàu thì ông chém !
Và đây chính là "Hiệu ứng Ernest Gallo" : uống rượu thật đắt tiền mới đúng là dân sành điệu ".

 
Hiệu ứng Ernest Gallo

Nhà tài phiệt rượu chát Ernest Gallo (1090-2007), sáng lập công ty E &J Gallo Winery, đã phát triển công ty từ nguyên lý nói trên, được giới phê bình gọi là "Hiệu ứng Ernest Gallo": cùng thứ rượu, khách bao giờ cũng chọn rượu đắt tiền .

 
Chính ông này đã cùng người em Julio Gallo thành lập hãng rượu chát E & J Gallo Winery nói trên, hiện đứng thứ nhì nước Mỹ, nổi tiếng với nhãn rượu Thunderfire và riêng ông ta năm 2006 được tạp chí Forbes xếp hạng 297 trong danh sách 400 người giàu nhất nước Mỹ.
Ernest Gallo sinh năm 1909 tại nông trại nho của cha mình ở thung lũng San Joaquin, cách San Francisco khoảng 80 dặm về phía Đông.

 
Bố của Ernest Gallo là một di dân gốc Ý, sinh sống bằng nghề lấy rượu từ các lò sản xuất giao bán tại các bar ở  Oakland  và  San Francisco . Trong khi gia đình bên ngoại của ông có nghề sản xuất rượu chát đỏ và đến khi ông ngoại của Ernest Gallo qua đời năm 1916, xưởng rượu của gia đình đã sản xuất và bán được tổng cộng 9,000 gallon(1 gallon tương đương với 3,7 lít) rượu chát đỏ.

 
Năm 1920, bố mẹ Ernest Gallo mua một nông trại để trồng nho cung cấp cho các nhà sản xuất rượu chát. Từ nhỏ, Ernest Gallo đã cùng các em làm quen với công việc trồng nho của gia đình, tới năm 17 tuổi, Ernest Gallo được bố giao cho công việc chở nho của gia đình tới các lò rượu.


Năm 1919 Mỹ áp dụng luật cấm rượu, tuy nhiên vẫn cho phép sản xuất rượu chát với tính cách cá nhân, và luật cấm này có vẻ như giúp đỡ công việc của gia đình họ. Đơn giản vì chính phủ cấm rượu mạnh và bia thì người ta trông cậy vào rượu chát tự cất, do đó càng tiêu thụ nho nhiều hơn.
Công việc tại nông trại của gia đình Gallo đang hoạt động bình thường thì xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế. Nông trại của gia đình Ernest Gallo cũng mất dần nguồn tiêu thụ nho nên lâm cảnh thua lỗ và nợ nần chồng chất. Sáng ngày 21/6/1933, Joseph Gallo- bố của Ernest Gallo- đã bắn chết vợ tại nhà và sau đó ông dùng súng tự sát, bỏ lại ba người con.

 
Ernest Gallo đã trở thành cột trụ trong gia đình và hai tháng sau, chính phủ liên bang hủy lệnh cấm rượu. Ernest Gallo đã quyết định đưa gia đình đi theo con đường sản xuất và kinh doanh rượu chát với quy mô lớn. Ông và em trai mình thành lập hãng rượu E & J Gallo Winery bằng nguồn vốn vay ban đầu là 5,900 Mỹ kim và một công thức nấu rượu từ thư viện công cộng  Modesto. Hai anh em đã dựng nghiệp bằng cách phân công : Julio chuyên tâm vào việc nấu rượu, còn Ernest chuyên tâm vào việc giới thiệu sản phẩm.


Ngay từ khi bước vào hoạt động, các sản phẩm của họ chưa có được một nhãn hiệu riêng và chưa được nhiều người biết đến, trong khi gặp sức cạnh tranh của các nhãn rượu đã thành danh như Petri, Cribari hay các nhãn hiệu rượu chát nổi tiếng của Ý và Thụy Sĩ tại thị trường địa phượng.Vì vậy  Ernest Gallo đã tập trung vào chương trình quảng cáo các sản phẩm của mình, chủ yếu là loại rượu không đóng chai.

 
Ernest Gallo đã phát triển công ty với mánh lới đã chứng minh qua các thí nghiệm nói trên : cùng thứ rượu, khách bao giờ cũng chọn rượu đắt tiền. Giai thoại kể rằng một lần khi đến New York,  Ernest Gallo rót cùng một bình rượu ra hai ly, một ly hô giá 5 xu, một ly hô giá 10 xu và người khách đã chọn ngay ly 10 xu.

 
Rượu rẻ tiền và rượu khom lưng

Năm 2001, nhà nghiên cứu Frederic Brochet của Đại học  Bordeaux  thực hiện hai cuộc khảo sát về rượu và có kết quả thu được khá buồn cười.
Đầu tiên Brochet lấy cùng một thứ rượu  Bordeaux  đỏ đổ nó vào hai chai khác nhau, một chai trang trí màu mè như bất cứ loại rượu "sang" nào khác, trong khi chai kia chỉ là một chai trần trụi, thứ rượu bình dân rẻ tiền. Kết quả từ các vị khách thưởng lãm khác nhau một trời một vực. Chai "sang" được khen tấm tắc với "vị rượu dễ chịu, đậm mùi gỗ, vị phức tạp, cân bằng và êm dịu", còn chai "bình dân" thì bị cho là "nhạt, êm dịu nhưng không thơm, không đủ chua, không hoàn hảo". Tổng cộng có 40 khách thưởng lãm cho rằng chai rượu có nhãn "sang" đáng uống, đáng thưởng thức, trong khi chỉ có 12 vị khách cho rằng chai "bình dân" ngon.

 
Sau đó Brochet đề nghị 54 thiện nguyện viên đánh giá 2 cốc rượu đỏ. Thực chất đây là rượu trắng đã được "nhuộm" đỏ bởi màu của thức ăn. Nhưng các thiện nguyện viên tham gia cuộc khảo sát này đã diễn tả sắc "đỏ" đấy theo thứ ngôn ngữ đặc trưng dành cho rượu chát đỏ. Một người ca ngợi vị "ngọt hoa quả" của thứ rượu đỏ , trong khi một "chuyên gia" khác lại thưởng thức nó và trầm trồ " choáng ngợp bởi vị của một thứ quả đỏ". Không một ai để ý rằng nó thực ra là một chai rượu trắng.
Brochet kết luận :"Đó là một hiện tượng tâm lý khá phổ biến-quí vị nếm thứ quí vị muốn được nếm. Họ mong được thử rượu đỏ và họ đã làm đúng như thế. Những gì họ ghi nhận, thực ra chỉ là một dạng kết quả hỗn hợp của các ý nghĩ, ảo tưởng và vị giác ".


Có thể nói rằng ai cũng muốn làm dân phong lưu lịch lãm , do đó muốn nếm rượu phong lưu lịch lạm, mà đã nói đến phong cách này thì phải nói đến tiền : càng lắm tiền, càng dễ phong lưu. Do đó khi nếm rượu chúng ta dễ bị "mù" vì giá tiền : hễ thấy giá tiền cao là cảm thấy ngon !
Davis Wilson dẫn trang blog The Wine Economist, nói về một mánh lới nhỏ của ngành bán lẻ rượu chát. Khi mua rượu, không ai thích mua thứ rượu dỏm, rượu đáng vứt đi. Khai thác tâm lý này các tiệm rượu dồn những thứ rượu có nhãn hiệu kém nhất xuống các kệ dưới, gần sàn nhà, lên cao dần là các nhãn hiệu bậc trung , bậc cao.

 
Mà thiên hạ càng tiêu thụ sản phẩm rẻ tiền , chủ tiệm càng ít lời. Và khi làm như vậy, họ bắt những kẻ mua rượu rẻ tiền phải khom lưng xuống : loại ít tiền thì phải chịu khom lưng, phải chịu hạ mình xuống.

Rõ ràng trên đời này không ai muốn tự hạ thấp mình. Khi mua một ly rượu để uống, không ai muốn thiên hạ đánh giá mình là "hạng người uống rượu 5 xu". Khi đến tiệm mua một vài chai rượu, không ai muốn bị đánh giá là " đi mua rượu mà phải khom lưng xuống ".
Và đó là cái cách mà những tiệm rươu sắp xếp kệ hàng. Theo họ thì hoạt động thể chất trong việc lấy chai rượu, thể hiện chọn lựa tâm lý mà chúng ta đưa ra : với lên cao để lấy các chai rượu đắt tiền hay hạ mình xuống như một kẻ bần tiện để nếm rượu vứt đi.
Nguyên tắc này được áp dụng tại cả những siêu thị lớn lẫn những tiệm tạp hóa rẻ tiền với những biến thể khác nhau.

 
Các nhà bán lẻ đã áp dụng nguyên tắc "khu vực tiện thể về già cả" (wine price comfort zone) tương ứng với từng kệ hàng . Họ không xếp các chai rượu theo vị (ngọt hay chát), theo xuất xứ (Pháp, Ý hay Bồ Đào Nha..) mà trộn lẫn với nhau theo giá tiền.

 
Giống như khẩu hiệu : "vô sản thế giới liên hiệp lại", rượu rẻ tiền thì bị tống hết xuống dưới, càng rẻ tiền thì càng bị vùi xuống tận đáy của cửa tiệm, bất kể xuất xứ và phân loại. Kệ này giá rượu từ 3 dô đến 5 đô, kệ trên từ 6 đô đến 8 đô...


"Tiền nào của đó" nhưng có khi đó là "của nào, người đó". The Wine Economist nhận định :"Rõ ràng, khách hàng muốn mua một thứ thể diện, mua hình ảnh của một người không hạ mình uống ly rượu 5 xu mà có khi anh ta không thể nói lên sự khác biệt".

NGUỒN INTERNET.


Rượu nồng, dê béo.

Dê xào sa tế. Dê ném về bà con với nai, hạp với sa tế như gà với lá chanh, chó với củ riềng, heo với củ hành, hột vịt lộn với rau răm (ảnh: tác giả)

Thịt dê đã thấy thấp thoáng trong sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, ngay Truyện Hồng Bàng, quyển I, là truyện đầu sách: “Trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu, dê làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới thương-thông;…” Nói là nói vậy thôi, chớ nếu tin Lĩnh Nam chích quái, mọi thứ ắt lộn tùng phèo. Chỉ biết là điều đó chứng tỏ người Việt thuần hóa dê lấy thịt, sữa từ sớm…

Sở dĩ phải viết “còn tiếp” trong tựa bài là để bớt sự chú ý của một số người đọc. Viết “còn tiếp” là phong cách đăng bài dạng feuilleton của các nhật báo trước năm 1975 nhằm câu khách. Nguyên câu ca dao được trích xuất trong tựa bài là: “Thế gian, ba sự khôn chừa/ Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ.”

Thịt dê được loài người thưởng thức lâu nhất là 10.000 năm trước. Tri thức nhân loại lưu truyền cũng nhờ con vật được cho là thông minh hơn chó này. Sách da dê. Đã tìm thấy những chứng cớ cho thấy dê ở Thụy Sĩ thuần hóa vào thời kỳ đồ đá. Có lẽ vì vậy mà cơ quan đăng ký chăn nuôi đầu tiên được tổ chức ở xứ ‘nhà băng’ này dành cho dê vào những năm 1600.

Khác với những loài chỉ chuyên gặm (grazer) cỏ, dê tự tuyển chọn (browser) thức ăn cho chúng. Chúng cũng như loài người: “Thích đủ thứ”. Cũng như loài người, dê thích hoa hồng và cây thông vì chứa vitamin C. Chớ không phải vì hồng đẹp như sự cuối cùng của một trong ba sự khó chừa; và thông được sánh với chuẩn mực thanh cao hơn người mà Nguyễn Công Trứ từng ao ước: “Kiếp sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.”

Ắt bác Trứ, người cũng hảo hảo cái khó chừa thứ ba, đương ở đâu đó trên Đà Lạt. Kéo theo sự nô nức lên xứ sương mù của dân miệt ngoải. Dê còn có cái thói tật vừa tò mò, vừa chỉ thích thứ gì phải với mới lấy được. Chẳng hạn như quần áo đầy màu sắc treo trên dây phơi. Không có ngón tay, dê dùng môi và lưỡi để khám phá thế giới của chúng như cách trẻ em ứng xử trong giai đoạn miệng (buccal phase). Sigmund Freud bảo đấy là giai đoạn tìm khoái cảm đầu tiên của con người. Sai bét, già cũng vậy thôi. Ông Cung Giũ Nguyên, người thầy cũ của tôi, nói trớ đi: “Sở dĩ tui hút píp, là bù trừ hồi nhỏ bị má bỏ bú sớm!”

Lẩu dê (file photo)

Nhưng dê béo đáng khuyến khích hơn heo béo và bò béo. Có lẽ vì vậy mà xảy ra là cái “khó chừa” thứ hai cho thế gian chăng? Dân ta chắc dựa trên kinh nghiệm. Khoa học giải thích rằng thịt dê chỉ có 1/8 tổng lượng chất béo so với thịt heo và 1/5 so với thịt bò và cừu.

Ở Việt Nam, một thời các quán có tên là “Sư phụ” đều là các quán bán thịt dê. Nhứt là “súng đạn” của dê. Người ta thấy công suất “trả bài” của dê đực nên chạy theo thuyết ăn gì bổ nấy, nhứt mực cho rằng “đạn” của dê giúp cho “Lâm Sung” và tôn dê đực (buck goat) lên hàng sư phụ. Lại nữa, Sài Gòn có món vú dê nướng không biết có theo thuyết ăn gì bổ nấy không. Mấy quán này đông khách nam nữ đề huề. Ngoài Bắc gọi là nầm dê.

Một ông bạn buôn thịt dê nói: Vú dê dở ẹc, hàng quán toàn phải thay bằng vú heo. Tôi hỏi: Có phải vì ăn phải vú dê vào hàng lão bà bà đã “về hưu”? Ông ta nói: Có khi tụi này mua mảo cả bầy dê. Cũng có vú này vú kia chớ! Nhưng không ngon là không ngon. Một ông dân Bắc biểu: Nầm dê dé (non) núi nướng thơm phức, đầy hương vị hương xa (exotic), dai, mềm, ngọt, bùi. Tôi bắt đầu ngộ ra: Cũng giống như sữa bò tươi thứ thiệt, không phải sữa bò tươi (do sữa bột hoàn lưu) quảng cáo trên “tidi” của Việt Nam. Sữa ấy còn đượm hương cỏ. Ông Bắc kể thêm: “Nầm dê núi có hương lá cây và những thứ đọt non đẫm sương mai. Hương của trời đất, mây bay, gió thổi…” Đến đoạn ông bắt đầu “Bắc” quá độ xin không trích dẫn tiếp.

Dê xào đậu đũa. Hai thứ hai lửa khác nhau, 
phải xào riêng biệt rồi mới trộn (ảnh: tác giả)

Từ thời Hồng Bàng đã nói đến thịt dê trong tiệc cưới. Cứ nên hiểu là cỗ cưới đã có vài món dê từ lâu. Thế mà Linh mục Phi-líp-phê Bỉnh (1759-1830?), một sứ giả đi Bồ Đào Nha để nhờ vua Bồ kiến nghị với Tòa Thánh La Mã thu hồi lệnh đóng cửa Dòng Tên, cho rằng ngoài Bắc, trong cỗ lớn mà không có thịt chó thì coi như cỗ không lớn. Cha Bỉnh đến Lisbone và sống lưu vong ở đó đến cuối đời.

Ông có viết cuốn nhật ký “Sách sổ sang chép các việc” trong thời gian ở nước ngoài. Trong sách có đoạn so sánh tiệc tùng giữa Tây và ta: “Ăn tiệc thì mỗi người có tới 15, 20 đĩa. Lễ trọng, phần mỗi người nửa con gà (chắc tại ông là linh mục, chớ người dân nghèo lấy đâu ra). Làm tiệc mà chẳng có thịt bò con, gà nướng thời chẳng gọi là tiệc trọng thể, cũng như xứ Bắc làm ma mà chẳng có thịt chó thì chẳng gọi là đám ma lớn”.[1]

Sài Gòn, thịt dê đương có sứ mạng thế thịt chó vốn thoái trào rất mạnh. Bây giờ chó có món gì, dê có món đó. Tôi cảm thịt dê cũng từ ca daoRu em buồn ngủ buồn nghê/ Con tằm chín đỏ, con dê chín muồi/ Con tằm chín đỏ để lại mà nuôi/ Con dê chín muồi làm thịt em ăn. Lời ru thấp thoáng bóng người ru, thấp thoáng bóng nong tằm, thấp thoáng bóng vườn dâu, thấp thoáng bóng đàn dê. Nhưng ngôn ngữ phương Đông không gặp ngôn ngữ phương Tây được như phán đoán của giáo sư triết học người Nhựt Gen Kida. Con dê chín muồi mà là mature goat hiểu theo nghĩa các trang dâm thư trên mạng thì chắc chắn là dai nhách em bé ăn hổng nổi. Ăn thịt dê đi vào tâm thức người Việt từ thuở nằm nôi nên đúng là “dê béo” khó chừa.

Ngoài sứ mạng thế thịt chó, dê còn món ngon kể gì: Tiết canh rắc mè. Tiết canh dê rắc mè của quán Rặt Dê trên đường mà dân ăn nhậu đặt cho biệt danh là San Franxíchlong, là ngon nhất. Dê bóp thấu bằng cách áp chảo rồi rắc mè rang lên ăn với lá mơ lông, rau ngò gai, tía tô ngon kể gì. Thịt dê vốn hơi lạt, nên cần “son phấn” một thời gian trước khi lên bếp.

Nhiều người sợ mùi dê. Chef Bảy Hồng khử mùi dê bằng rượu trước khi nấu. Dê có mùi là do hai hạch mùi chính nằm ở phía sau sừng. Người nuôi có thể cắt bỏ hạch này, nhưng thiếu mùi dê sẽ động dục yếu, và đực cái khó nhận ra nhau từ xa.

Dê còn được cho là giải thoát sự hư vô của triết học phương Tây, theo Friedrich Nietzsche. Tại châu Âu lúc bấy giờ, văn hóa cổ đại Hy Lạp được xem là nhẹ nhàng, sáng sủa. 24 vị thần do Thần Ánh sáng Apollo đại biểu. Điều đó đã đem tinh thần thể điệu Apollo tươi sáng che lấp mất thể điệu Dionysos sầu thảm. Người La Mã gọi Dionysos là Bacchus. Các nghi thức cúng tế ông diễn ra bí mật trong rừng sâu. Các phụ nữ xõa tóc rũ rượi, thân thể trần truồng, ăn tươi nuốt sống động vật, cùng nhau uống rượu, phóng túng cuồng hoan.

Tại các nghi thức cúng tế này, dàn hợp xướng khoác áo da dê lên người rồi cùng nhau hát những bài ca bi quan yếm thế về loài dê – biểu tượng của thần Dionysos. Theo truyền thuyết, đây là khởi nguyên của bi kịch. Từ nguyên của bi kịch là tradedy gồm tragos (con dê) + ode (bài hát). Nietzche theo đó phê phán triết học phương Tây, được ông cho là triết học sau Plato. Theo ông, chỉ có cái đẹp của nghệ thuật (thể điệu Dionysos) mới đưa triết học sau Plato thoát khỏi hư vô.

Một chiều mưa Sài Gòn ngồi trong quán dê Bạn Tôi trên đường Lý Chính Thắng vừa ăn miếng nhựa mận vừa ngẫm ngợi về một phần đời làm ruộng chỉ ăn toàn thịt chó (thịt dê bấy giờ chưa thịnh hành). Ngẫm ngợi sự thăng trầm của thịt dê – từ “sư phụ” xuống thành “bạn tôi”.

Người Mỹ không hay ăn thịt dê. Nhưng người Mỹ nhập cư ăn thịt dê phần lớn trong diet của mình. Nhất là Mỹ gốc Tây Ban Nha và Đông Nam Á. Và ở bển người ta không gọi là goat meat mà gọi là chevon, hợp từ của chèvre và mouton tiếng Pháp.

Chúc bạn rượu nồng, dê béo và còn tiếp!

__________

[1] Nguyễn Thị Chân Quỳnh, “Ký sự đi thái tây: Phi Li Phê Bỉnh (1759-1830?), Phạm Phú Thứ (1821-1882)” . Nguồn: chimviet.fr

Tài liệu tham khảo

1/Jerry Belanger & Sara Thomson Bredesen, Storey’s Guide to Raising Dairy Goats, 4th Edition, Storey Publishing, 2010.

2/Maggie Sayer, Storey’s Guide to Raising Meat Goats, 2nd Edition, Storey Publishing, 2010.





















Không có nhận xét nào:

CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU SÓC TRĂNG THAM QUAN, ỦNG HỘ HOANGDIEUTRUONGXUASAIGON.BLOGSPOT.COM. CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM NHIỀU SỨC KHỎE, THÀNH CÔNG TRONG CÔNG VIỆC.