.

.

a

Hoa đào nở, chim én về, mùa xuân lại đến. Chúc quý thầy cô và anh chị em đồng môn năm mới Giáp Thìn : - nghìn sự như ý, vạn sự như mơ, triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc.
THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ, ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU - MỘT NĂM MỚI AN KHANG THỊNH VƯỢNG - VẠN SỰ NHƯ Ý

Thứ Hai, 15 tháng 1, 2024

NẾU CÓ KIẾP SAU TA VẪN THUỘC VỀ NHAU.



Anh, một chàng sinh viên nghèo. Làm thêm vất vả để kiếm thêm tiền trang trải học phí. Em tiểu thư cành vàng lá ngọc con nhà giàu có khá giả, gia đình có tới mấy osin. Lần đầu tiên về quê đến cây tỏi tây và cây hành em cũng không phân biệt được.
Anh gặp em lần đầu tiên trong ngày khai giảng. Em đứng đó vui cười với đám bạn, mải mê làm đổ cốc coca lên váy trắng. Ngượng ngùng anh đưa em áo khoác che vết loang. Giây phút ấy em mãi không quên anh.
Bốn năm học đại học, em muốn giúp anh nhiều lắm, muốn cuộc sống anh đỡ vất vả vì phải vừa học vừa làm. Đưa tiền anh đâu có nhận, anh nói anh không làm được cho em thì thôi...
Tốt nghiệp, đáng lẽ chia tay, chỉ là tình yêu thời đại học thôi mà. Nhưng em đã quyết định theo anh. Gia đình em phản đối quyết liệt, nhưng em vẫn chọn cho mình người đàn ông của cả cuộc đời
Nên vợ nên chồng, về quê sống trong căn nhà tồi tàn của anh. Rồi em mang thai, nhiều khi trái gió trở trời người đau ê ẩm. Anh thương em, đông cũng như hè đi làm kiếm thêm tiền nuôi vợ.
Thế rồi trong một tai nạn xe, anh liệt đôi chân. Nằm một chỗ ở nhà, tất cả mọi việc đều trông cậy vào em. Bố mẹ em thương đến đón em về nhưng em từ chối. Chữa bệnh cho anh em bán hết mọi thứ trong nhà, cuối cùng cũng hết. Bố mẹ em thấy con khổ lại cho tiền.
Cứ thế cuộc sống nghèo ở một vùng quê, em làm giáo viên, anh nằm nhà viết sách. Em đã trút bỏ hình ảnh lá ngọc cành vàng năm nào để trở thành người vợ đảm. Đi chợ mặc cả, quần áo bình thường, cân đo đong đếm còn tốt hơn những người phụ nữ khác
Bác sĩ bảo chồng bà không còn đi được nữa, nhưng em không tin, hàng ngày vẫn bóp chân cho anh , hi vọng một phép màu sẽ đến. Ngày ấy em nghe có một bác sĩ châm cứu giỏi. Em đèo xe 50km đưa anh đi châm cứu hai ngày một lần không kể ngày nắng ngày mưa ngày lạnh ngày nóng.
Anh nhìn em khóc:
- Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em nữa, em quá khổ vì anh.
Một năm sau phép màu đến thật, chân anh hồi phục cũng là lúc anh nhận được giải thưởng quốc tế từ những cuốn sách anh viết. Không ai nghĩ sẽ có ngày hôm nay.
Rồi họ mời sang Pháp thuyết trình ba năm, anh do dự, em nói:
- Anh phải đi, cơ hội không đến hai lần.
Nhìn lại quãng đời, em đâu còn trẻ đẹp như xưa...Chồng, con, vất vả, thân hình gầy gò ốm yếu.
Pháp là đất nước của tình yêu, nhiều người nói anh đi sẽ không trở lại. Em chỉ mỉm cười đáp lại:
- Em và anh đã trải qua bao nhiêu sóng gió, vì một việc thế này em không sợ mất anh.
Ba năm sau anh về, không báo trước, muốn dành cho em một sự bất ngờ. Nhưng vừa xuống xe anh đã thấy em đứng đó. Anh hỏi sao biết anh về mà ra đón, em trả lời:
- Em chờ ở đây mỗi ngày, chỉ cần là xe từ sân bay về là em không bỏ qua chuyến nào.
Anh chỉ khóc mà nói:
- Nếu còn có kiếp sau, anh sẽ không bao giờ yêu em, tình yêu của em làm anh đau lắm, đau lắm, tình yêu của em quá nhiều khổ đau...
Em đáp trả lời anh:
- Tình yêu luôn luôn là khổ đau, cay đắng. Tình yêu như một bông hoa sen, hoa sen đẹp nhưng nó có cái nhụy sen, hạt sen rất đắng. Nếu còn có kiếp sau, em sẽ vẫn muốn được yêu anh.
Từ Internet




NGƯỜI MẸ CỦA BIÊN GIỚI SỐNG VÀ CHẾT.
(Lm. NGUYỄN TẦM THƯỜNG, Dòng Tên)
Năm 2000, tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc California. Hôm ấy, cuối nhà thờ có người gọi tôi. Quay lại nhìn, ngờ ngợ, ai ngờ đâu tôi gặp lại người đàn ông tôi đang muốn tìm từ lâu…
Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan, Philippines 1989 – 1995, tôi gặp ông ở đấy. Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ tâm. Ngày ngày ngồi tráng bánh ở một góc đường trong khu trại tỵ nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh từ hai giờ sáng bên vỉa đường. Mỗi ngày vài chục pesos. Ngày ấy,1 US dollar được 25 pesos tiền Philippines.
Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều người túng cực. Ông phải đùm bọc hai người gốc Chàm không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ xách nước, người kiếm củi, ông tráng bánh… Khoảng ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha Crawford, một cha già người Mỹ trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào, gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ.
Ông rời cửa biển Cam Ranh ngày 2.9.1988 vào đất Philippines. Một năm sau, tháng 9 năm 1989 ghe của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha Trang được hai ngày bị bể máy. Ghe lênh đênh trên biển đông, rồi lâm nạn. Vợ ông đem theo ba con nhỏ. Hết lương thực, nhờ mưa gió có nước uống mới sống sót. Sau nhiều ngày bão táp, một chủ ghe đánh cá người Tầu ở đảo Hải Nam bắt gặp chiếc ghe lâm nạn này. Ông ta chỉ đồng ý tiếp tế gạo, cho nước và kéo ghe ra khỏi vùng lâm nạn san hô với điều kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé chính là con của người đàn ông này.
Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh đến khi gặp chiếc ghe người Tầu rồi cập được vào đất liền là 25 ngày. Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông chủ ghe người Tầu mong một cháu trai mà không được. Cuộc mặc cả là xé ruột gan người mẹ. Trước biên giới sống và chết, họ phải chọn sống. Vấn đề ở đây là sự sống của toàn thể 44 người trên chiếc ghe. Nếu không mất đứa bé, toàn ghe có thể chết.
Chiếc ghe đánh cá người Tầu mang theo cháu bé rồ máy chạy vội vã biến mất hút về phía Trung Quốc. Rồi tin ấy đưa đến cho người đàn ông này ở Palawan. Mỗi ngày ông cứ lặng lẽ tráng bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ ở trại tỵ nạn Hongkong. Ðau thương vì mất con. Con tôi trôi giạt nơi đâu ? Vợ chồng mỗi người một ngả… Ðứa con mất tích sẽ ra sao? Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới hơn ba tuổi.
Cha Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết người đàn ông đã nhờ cha già gởi tiền cho vợ như thế bao lâu rồi. Theo ông kể lại, vì không là người Công Giáo, ông đâu có tới nhà thờ. Một hôm có mấy người vào cha xin tiền mua tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một linh cảm nào đó xui khiến ông gặp cha. Ông kể cho cha già nghe chuyện ông mất con.
Một trong những ý định qua trại tỵ nạn làm việc của tôi là thu lượm những mẩu đời thương đau của người tỵ nạn. Tôi tìm gặp ông ta để hỏi chuyện…
Câu chuyện bắt đầu.
Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo Trung Quốc, một nửa số người quá sợ hãi, đi đường bộ trở về Việt Nam. Số còn lại kết hợp với ít người đã trôi dạt vào đảo trước đó, sửa ghe tìm đường qua Hongkong. Người đàn ông tưởng chừng vợ đã chết trên biển vì hơn ba tháng sau mới nhận được mấy lời nhắn tin viết vội bằng bút chì từ trại tỵ nạn Hongkong. Ông đưa miếng giấy nhàu với nét bút chì mờ cho tôi. Sau khi ông rời trại tỵ nạn, mất liên lạc, tôi chỉ còn giữ tấm giấy như một kỷ niệm quý hơn chục năm nay.
Ðó là lá thư thứ nhất ông nhận được. Những lần giảng trong Thánh Lễ về tình nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ đến ông.. Một người đàn ông cặm cụi tráng bánh để rồi ba tháng trời dành được 20 đô la gởi tiếp tế cho vợ.
Ông tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào đó được đi định cư, dành dụm tiền rồi đi Trung Quốc dò hỏi tin con. Nghe ông nói vậy, tôi thấy ngao ngán cho ông. Bao giờ ông mới được định cư ? Rồi định cư xong, biết bao giờ ông mới thực hiện được mơ ước ? Tình trạng tỵ nạn lúc này quá bi đát. Mười người vào phỏng vấn may ra đậu được ba. Ðất Trung Quốc rộng mênh mông như thế biết đâu tìm ? Bao nhiêu khó khăn như tuyệt vọng hiện ra trước mặt. Tôi thấy ý nghĩ mơ ước đi tìm con của ông như cây kim lặng lờ chìm xuống lòng đại dương.
– Tại sao không nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn, nhờ Hội Chữ Thập Ðỏ Hongkong ?
Người đàn ông này sợ lên tiếng như thế gia đình Tầu kia biết tin sẽ trốn mất. Chi bằng cứ âm thầm tìm kiếm. Tôi thấy dự tính của ông khó khăn quá. Những năm làm việc bên cha già, tôi biết một đặc tính của ngài là thương kẻ nghèo. Ngài thương họ vô cùng, ngài sẽ làm bất cứ gì có thể. Tôi đề nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu cầu tứ chiếng.
Các thư được viết đi. Ngài cầu cứu Cao Ủy Ti Nạn, Hội Hồng Thập Tự, cơ quan từ thiện dịch vụ tỵ nạn Công Giáo, từ Manila đến Bangkok, Thailand. Ðợi chờ mãi mà năm tháng cứ bặt tin. Tôi vẫn thấy người đàn ông cứ dáng điệu buồn bã ngồi bên đường tráng bánh… Trời nhiệt đới nắng và nóng, mỗi khi xe chạy qua, bụi đường bay mờ người. Hàng ngày lên Nhà Thờ, tôi lại hình dung bóng hình ông. Chỗ ông ngồi không xa tháp chuông Nhà Thờ bạc vôi sơn và tiếng chuông mỗi chiều là bao.
Mỗi chiều dâng lễ, tôi lại nhìn thấy cây Thánh Giá trên nóc Nhà Thờ đã nghiêng vì gỗ bị mục. Cây thánh giá trải qua nhiều mùa mưa nắng quá rồi. Bức hình Mẹ Maria bế Chúa Hài Nhi trên tấm ván ép dưới cây Thánh Giá cũng bạc nước sơn. Những người tỵ nạn đã bỏ một vùng đất rất xa. Quê hương của họ bên kia bờ biển mặn. Nhiều người cứ chiều chiều ra biển ngồi. Ðêm về sóng vỗ ì ầm. Biết bao người đã không tới bến.. Họ đến đây tìm an ủi trong câu kinh.
Giữa tháng ngày cằn cỗi ấy, rồi một chiều bất ngờ tin vui đến.. Hội Hồng Thập Tự Hongkong báo tin về Manila.. Manila điện xuống báo cho cha Crawford biết người ta đã tìm được cháu bé.
Lúc bắt cháu bé, người Tầu trên ghe đánh cá kia đã lanh trí che tất cả số ghe. Không ngờ trời xui khiến, trong lúc thương lượng bắt cháu, trên chuyến ghe tỵ nạn Việt Nam có kẻ lại ghi được mấy chữ Tầu ở đầu ghe bên kia vào một chiếc áo. Không ngờ chiếc áo này lại là chính chiếc áo của cháu bé bỏ lại. Quả thật là chiếc áo định mệnh. Nguồn gốc nhờ mấy số ghe đó mà sau này người ta mới phanh phui ra được gốc tích chiếc ghe. Ðó là một thuyền đánh cá ở đảo Hải Nam.
Tìm được cháu rồi, bây giờ lại đến phần gia đình người Tầu đau khổ. Cháu không còn nói được tiếng Việt, vì hơn một năm liền mọi sinh hoạt trong gia đình kia là của cháu. Hồi bị bắt cháu còn bé quá, mới hơn ba tuổi. Bà mẹ người Tầu cũng khóc, biết mình sẽ mất đứa con mà họ đã nuôi. Họ nhất định không trả. Cao Ủy phải can thiệp nhiều lắm. Gia đình ở đảo Hải Nam kia dựa lý do là cháu đang được nuôi nấng tử tế, còn ở trại tỵ nạn cháu thiếu thốn đủ thứ, họ không chịu mất con. Nhưng Cao Ủy bắt phải trả cháu về cho bố mẹ ruột.
Ðể thỏa mãn điều kiện kia, Sở Di Trú Mỹ liền cho bà mẹ bị bắt con quyền định cư tại Mỹ, dù đã đến trại sau ngày thanh lọc. Trong lúc đó người đàn ông này đã bị Mỹ từ chối tại Philippines. Ông buồn lắm. Cha Crawford bảo tôi rằng vợ người đàn ông đã được vào Mỹ, nên cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn tại Philippines yêu cầu cho ông cũng được vào Mỹ theo. Vì nhân đạo, sở di trú Hoa Kỳ đồng ý. Tin vui như vậy mà ông cứ đứng như trời trồng không tin chuyện có thể xảy ra như thế.
Ngày trao trả cháu bé, báo chí Hongkong đăng hình cháu khóc thảm thiết. Cháu đẩy mẹ ruột ra, đòi về với mẹ nuôi. Người mẹ nuôi khóc vì thương nhớ cháu. Mẹ ruột cũng khóc vì thấy lại con mà con không biết mình. Tất cả ai cũng khóc… Cao Ủy Tỵ Nạn bồi thường lại phí tổn nuôi nấng cháu bé cho gia đình người Tầu kia. Chuyến bay rời Hongkong mang theo bao tình cảm nhân loại của con người với con người.
Thời điểm bấy giờ không biết bao chuyện thương tâm xảy ra. Hàng trăm ngàn người chết trên biển, ăn thịt nhau vì chết đói. Hải tặc Thái Lan tung hoành bắt người nhốt ngoài đảo, hãm hiếp, chặt răng vàng, giết. Ðối với thế giới chuyện cháu bị bắt cóc chỉ là chuyện nhỏ. Vậy vì đâu họ ra sức đi tìm ?
Ðây là lý do:
Câu chuyện thương tâm của người mẹ mất con đến tai Mẹ Têrêsa Calcutta. Ấn Ðộ là thuộc địa cũ của người Anh. Mẹ Têrêsa viết cho chính phủ Anh xin can thiệp chuyện này. Từ London, chính phủ Anh xin Bộ Ngoại giao Bắc Kinh điều tra tìm chiếc ghe mang số như thế..
Bên ngôi mộ Mẹ Têrêsa ở Calcutta, ngày 14.5.2001 tôi kể chuyện này cho Sơ Bề Trên Dòng. Sơ yêu cầu tôi viết lại cho sơ làm tài liệu. Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh đang ở Calcutta điều tra để xúc tiến hồ sơ phong thánh cho Mẹ Têrêsa. Một Linh Mục ngồi nghe chuyện tôi kể, ngài nói:
– Tâm hồn Mẹ Têrêsa rất bao dung. Mẹ thương người nghèo. Mẹ là người của biên giới giữa sống và chết.
Nghe câu nói đó của cha. Tôi hiểu ý là Mẹ luôn đứng bên lề sự sống kéo kẻ chết về phía mình. Chính vì thế tôi đặt tên cho bài viết này là: Người Mẹ của biên giới sống và chết.
Nghe tiếng người đàn ông gọi. Quay lại nhìn, không ngờ chính người đàn ông mất con, ngồi tráng bánh ở trại Palawan ngày xưa, tôi mừng lắm. Sau lễ chiều, tôi tới nhà ông dùng cơm. Ông rời trại tỵ nạn Palawan tháng 6, lên Bataan rồi vào Mỹ tháng 12 năm 1990. Không ngờ mười năm sau tôi gặp lại.
Cháu bé bây giờ lớn rồi. Chuyện đã hơn cả chục năm qua. Cháu chẳng nhớ gì. Riêng cha mẹ thì nhớ lắm, nhất là những gì đau thương vì con cái thì trong trái tim cha mẹ không bao giờ quên. Còn tôi, đấy là một kỷ niệm đẹp trong những ngày làm việc bên trại tỵ nạn.
Không ngờ có ngày tôi gặp lại người đàn ông này. Không ngờ có ngày tôi ngồi bên mộ Mẹ Têrêsa trên đất Ấn. Một vùng đất rất xa với chỗ ngồi tráng bánh của người đàn ông mất con. Không ngờ tôi lại là kẻ chứng kiến những chuyện tình này, để rồi nối kết khung trời này với khung trời kia. Không ngờ vào ngày Lễ Phục Sinh năm 1999 ông đã nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội, nếu ông không đi lễ ở Nhà Thờ Oakland hôm đó, làm sao tôi gặp lại.
Tại vùng đất Vạn Ninh, chỉ có một ngôi Nhà Thờ nhỏ miền quê độc nhất. Ðêm Noel năm 1985 sau khi đến Nhà Thờ về, em bé chào đời đúng ngày 25 tháng 12 năm 1985. Người đàn ông kể cho tôi ngày sinh nhật của em thật đặc biệt. Còn tôi, tôi thấy ngày em mới hơn ba tuổi phải hy sinh để cứu chuyến ghe là hình ảnh thế mạng sống chuộc thay cho người khác.
Trong câu chuyện này cả ba người đàn bà đều có những tấm lòng rất đỗi đáng yêu. Người mẹ sinh cháu bé, bao yêu thương và xót xa. Mẹ Têrêsa với tấm lòng hiểu nỗi thương đau của những người mẹ. Bà mẹ nuôi người Tầu đã săn sóc em khi ông chồng đánh cá đem cháu về. Tất cả là tấm lòng bao dung của những bà mẹ.
Tôi viết dòng này, cha già Crawford đã chết rồi. Mẹ Têrêsa cũng chết rồi.
Ngày mai, giữa biên giới của sự sống và chết ,còn những chuyện không ngờ nào sẽ xảy đến nhỉ ?

Trích trong sách “Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục” . /.

Nhân kỷ niệm Sinh Nhật thứ 104 của Thầy Cung Giũ Nguyên, xin mời đọc một truyện ngắn của Thầy (chưa được xuất bản)

Ngàn đời nhớ anh
Nhân kỷ niệm Sinh Nhật thứ 104 ( 21.11.1909 - 21.11.2023) và tưởng niệm 15 năm ngày mất (07-11-2008) của Thầy Cung Giũ Nguyên, kính mời đọc một truyện ngắn Thầy viết năm 1971 ( chưa dược xuát bản). Có thể nhiều vị chưa được đọc qua.


Ngàn đời nhớ anh
(Cung Giũ Nguyên)

Nhà Văn Cung Giũ Nguyên (1909 – 2008)



 Đôi dòng giới thiệu:

Tôi có vinh dự được làm học trò (nhỏ) của Thầy Cung Giũ Nguyên năm lớp Đệ Nhất C trường Trung học Võ Tánh Nha Trang. Tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh của Thầy trong những giờ Littérature Française. Thầy ngồi trên bàn, lim dim đôi mắt nhìn ra ngoài cửa sổ vào những ngày cuối thu có lá me bay, thao thao bất tuyệt về những bài thơ của Victor Hugo, Alphonce de Lamartine, Paul Verlaine, Jacques Prévert… hoặc các tác phẩm của Hector Malot, Anatole France. Thầy không chỉ là Thầy của thế hệ chúng tôi mà còn là Thầy của những bậc sư huynh, kể cả nhiều vị Thầy trẻ khác, những anh chị học sinh đã bước chân vào trường Trung học Võ Tánh năm từ năm 1947, lúc đó còn mang tên Collège de Nha Trang. Thầy cũng có trái tim rất đa tình, từng có mối tình rất lãng mạn với một cô học trò tài hoa, sau này trở thành nhà văn với tác phẩm Vòng Tay Học Trò vang tiếng một thời.

 Ngoài Pháp Văn và Việt Văn, Thầy còn dạy Hán Văn, La Tinh, Anh văn , Sử địa, Kinh tế học, Triết học,… Đặc biệt, Thầy còn là huynh trưởng thuộc hạng “soái ca” của Hướng Đạo VN. 


                                                       Huynh trưởng Hướng Đạo Cung Giũ Nguyên

Và trên hết, Thầy Cung Giũ Nguyên là một học giả tài hoa. Ông viết nhiều tiểu thuyết bằng tiếng Pháp, nổi bật là hai tác phẩm Le Fils de la Baleine (Kẻ thừa tự của ông Nam Hải) (1956) và Le Domaine maudit (Miền đất dữ) (1961) đều được nhà xuất bản Arthème Fayard phát hành tại Pháp.  Riêng Le Fils de la Baleine đã được dịch sang tiếng Đức và xuất bản năm 1957 tại Genève và Frankfurt dưới nhan đề Der Sohn des Walfischs. Trong chỉ một năm 1958, tiểu thuyết này đã được tái bản đến lần thứ mười tại Pháp. Đã có luận án tiến sĩ viết về văn chương Pháp của ông.

Tác phẩm quan trọng cuối đời của Thầy của Cung Giũ Nguyên là Le Boujoum, tiểu thuyết. Được khởi sự viết một năm sau biến cố 1975 và hoàn tất vào năm 1980 tại Nha Trang. Cũng trong năm này, một chương trong tác phẩm, Khúc Hát của Amdo (Le Chant d’Amdo), đã được đăng tải trên một tạp chí văn học ở Pháp, với lời giới thiệu và ngợi khen đầy nhiệt tình của giáo sư Camille Souyris, chủ biên của tạp chí. (“Fer de Lance”, Rythmes et Couleurs, Cannes, France, Décembre 1980). Tác phẩm này được dịch sang tiếng Việt với tưa “Thái Huyền”. Đây là một tác phẩm với thi pháp mà “kungfu” đã đến đỉnh mà chính người Pháp cũng thừa nhận: “một tác phẩm khó nuốt nhưng chiều sâu ngôn ngữ của nó thì vô tận”. Vì vậy đáng tiếc (và đáng buồn) với một người học trò “nhỏ bé” như tôi, đã đọc lại mấy lần mà vẫn không hiểu được hết ý nghĩa của truyện, chỉ mơ hồ nhận ra đôi điều mà Thầy muốn gởi gấm!

Hôm nay, nhân kỷ niệm sinh nhật thứ 104 của Thầy ( 21-11-1909 – 21-11-2023) và cũng để tưởng nhớ 15 năm ngày mất của Thầy (07-11-2008), xin phép được giới thiệu một sáng tác của Thầy viết năm 1971 (chưa được xuất bản}- Truyện ngắn “ Ngàn đời nhớ anh”.

(Học trò Phạm Tìn An Ninh)


Ngàn đời nhớ anh

Cung Giũ Nguyên


Ngày thứ bảy ấy, mẹ tôi đưa tôi ra xe hỏa để trở về Ngoạn Mục. Mặc dầu có lời khuyên bảo của bác sĩ chuyên môn, tôi biết tôi đã vĩnh viễn đi vào cuộc đời mới, đời của kẻ mù lòa.


Thôi, hy vọng của tôi học cho hết mấy năm đại học để có chút danh phận hay để làm nên một sự nghiệp, hy vọng của tôi cũng như của mẹ tôi đã tiêu tan mất, như những màu sắc cuối cùng tôi thấy một buổi sáng nơi bờ biển Vũng Tàu, rực rỡ một hồi rồi biến thành một màu xám đen, mãi mãi xám đen.


 Ba tháng nằm ở bệnh viện không thay đổi được tình trạng. Tôi có thể hiểu xuyên qua lời giải thích của nhà chuyên môn, nào nguyên nhân nào biến trạng, nhưng tôi không thể chấp nhận hiện tại đau đớn và tuyệt vọng, vì hiện tại ấy là của tôi. Bạn hữu thăm viếng tôi, an ủi tôi với những mẫu đời tươi đẹp và can đảm của những người mù danh tiếng như cô Helen Keller hay chàng ca sĩ da đen Ray Charles, nhưng tôi không phải là họ. Tôi chỉ là một đứa con gái hai mươi hai tuổi, con duy nhất của một góa phụ sống về nghề rau quả ở một làng nhỏ ở Cao Nguyên, không có biệt tài nào, không có phương tiện nào để vạch một con đường đời khác những bạn đồng lứa, đồng thời, với tôi. Lớn lên phải đi học, học phải lên lớp, đến lớp cuối phải thi và thi cho đậu, thi đậu lại tiếp tục học, học để rồi mù, để trở thành gánh nặng cho những người chung quanh phải lo cho mình mọi sự.


 Một Dì phước trong bệnh viện đã khuyên tôi hãy tìm Chúa, hãy cầu nguyện Chúa cho lại ánh sáng, Nhưng từ xưa nay, tôi chẳng biết đến Thượng Đế nào, tôi đã trả lời với Dì phước là tôi thấy hổ thẹn phải cầu xin một Đấng mà tôi đã không có cơ hội phụng thờ. Chúa là của Dì, nếu Dì muốn, Dì cứ cầu xin cho tôi. Người nữ tu đành đáp lại một cách nhẫn nhịn: “Chúa là Chúa chung cho tất cả, của những ai đã tin cũng như của những người không biết hay chống lại Chúa nửa. Nhưng tôi sẽ không quên cầu xin cho Chị, Chị đừng ngã lòng, hãy về tịnh dưỡng một thời gian đi…”


 Xe hỏa đến ga Cầu Bảo một buổi trưa nóng gay gắt. Tôi nhận ra những khoảng trống mặt trời chiếu trên đầu tôi, cho đến khi mẹ tôi dìu tôi vào phòng đợi của nhà ga… Chúng tôi phải sang xe, nhưng xe đi Ngoạn Mục nửa giờ nữa mới có. Chuyến tàu của chúng tôi đi từ Saigon đã rời khỏi nhà ga, tiếp tục con đường ra Nha Trang. Những tiếng ồn trong phòng đợi đã bớt đi, nhưng lại có tiếng xì xào của những hành khách đi Dalat như chúng tôi. Tàu không có. Đường bị hỏng. Chuyến tàu bị hủy bỏ. Tôi hỏi mẹ tôi. Có tiếng lễ phép của một người đàn ông xác nhận không có tàu lên; đường móc sắt phía trên Krongpha hư. Có lẽ một hai ngày nữa mới sửa xong. Tôi không còn nghe tiếng người lạ ấy nữa.


 Mẹ tôi bàn với tôi xuống Phan Rang ở lại một hai bữa hay là thuê xe hơi về Ngoạn Mục. Cả hai giải đáp không mấy thuận lợi. Với bệnh tật của tôi, tôi nghỉ đến bao phiền phức gây thêm cho mẹ tôi. Đợi tàu nơi phòng khách này cho đến khi nào không biết, cũng chẳng phải một lối thoát êm ả. Chúng tôi đang còn phân vân thì có tiếng giày bước đến gần chúng tôi, và giọng nói êm ái, trẻ trung, lịch sự, của người đàn ông khi hồi, cất lên một cách thiện cảm: “Tôi có xe đi lên, nếu quý bà cần đi gấp, xin mời đi.”
– Cám ơn thầy, mẹ tôi nói, nhờ thầy cho mẹ con tôi quá giang, chúng tôi sẽ xin trả tiền.


– Thưa không, xe nhà, chỉ có mình tôi lên, rộng chỗ, và không có vấn đề tiền nong gì cả. Các bà ở đường phố nào trên Dalat?
– Chúng tôi không ở trên ấy, nhà chúng tôi ở Ngoạn Mục. Đây là con gái tôi, học ở Saigon nhưng phải về dưỡng bệnh.


Người đàn ông có lẽ đã cúi xuống để xách cái va-ly cho mẹ tôi, và có lẽ thấy tay tôi đang quơ quào tìm hành lý nhỏ để bên cạnh, đã biết kính đen của tôi che đậy bệnh tật gì. Tay người đã đở cái xách và đặt vào tay tôi.


 Xe chạy khỏi cầu Tân Mỹ, khí trời trở nên dễ chiụ. Tôi ngồi ghế sau với hành lý. Mẹ tôi ngồi bên cạnh người lái xe. Thỉnh thoảng, mẹ tôi ngoảnh lại để đưa cho tôi nước uống, những múi cam bóc sẵn của người lạ mời. Mẹ tôi đã trò chuyện nhiều với chủ xe. Tôi thoáng hiểu người ấy chừng ba mươi tuổi, có một hiệu sách Nam Đồng, gần chợ Dalat. Ông ta chỉ vì thích đọc sách mà trở thành người bán sách, chưa có gia đình, không cha mẹ anh em, sống một mình, khi nào cao hứng thì đóng cửa hiệu để đi du ngoạn hay vào rừng kiếm phong lan. Mẹ tôi nắm lấy cơ hội, nói có một số hoa, không ai săn sóc, sẽ biếu ông.


 Đến Ngoạn Mục, mẹ tôi chỉ đường cho ông Nam Đồng rẻ vào vườn nhỏ bé của chúng tôi. Miễn cưỡng lắm, ông mới bằng lòng vào nhà, để chứng kiến cảnh vú già tôi ôm choàng tôi khóc lóc thảm thiết. Hình như ông Nam đồng chịu uống một tách nước trà nóng, nhận một đôi phong lan, đi quanh vườn rau để thấy công việc làm ăn của mẹ tôi. Trở vào nhà, ông đã nói đôi lời trước khi mẹ tôi tiễn ông ra cổng. Rồi tiếng máy nổ và xe chạy. Tôi trở lại đời yên tĩnh và âm u của tôi.


  Mãi gần một năm sau, tôi mới có dịp nghe lại tiếng nói của ông Nam Đồng. Ông đến cùng vài người đứng tuổi, bà con gì với ông ấy, không chỉ để thăm mẹ con tôi, mà đến để bàn một chuyện chúng tôi không bao giờ nghỉ đến. Tôi vẫn mù lòa, đã quen thuộc khung cảnh, tôi không thấy khó chịu gì lắm khi đi đứng, di chuyển. Tôi làm được đôi việc để giải khuây hơn là giúp đỡ mẹ tôi hay vú già. Một người cậu của tôi đã cho tôi một máy hát và rất nhiều đĩa hát; nghe âm nhạc cổ kim là giải trí thường xuyên của tôi. Mấy bạn học của tôi đã cho tôi một con chó xù, nó là bạn duy nhất luôn luôn bên cạnh tôi. Thế mà ông Nam Đồng lại có ý xin cưới tôi làm vợ. Mẹ tôi cảm động, hỏi ý kiến tôi. Tôi từ chối, và mẹ tôi cũng đồng ý với tôi như vậy. Ngoài những lý do riêng của mẹ, riêng của tôi, hai mẹ con tuy không nói thẳng ra, không muốn để cho một người nào khác, chẳng tội tình gì, phải đến chịu gánh nặng săn sóc một người bệnh tật suốt đời. Tôi còn nhớ lời từ khước của mẹ tôi: “Xin cám ơn ông bà, cám ơn cậu, con tôi bệnh hoạn. Tôi cầu Trời khẩn Phật cho cháu chóng lành để sống được một đời bình thường. Bây giờ thì không thể nghĩ đến chuyện cưới gã được.” Lại những tiếng thì thầm nơi cửa, và tiếng nhiều chiếc xe chạy từ từ. Đứng nơi cửa sổ, tôi đưa mặt ra phía đường để tưởng tượng hình ảnh những chiếc xe lăn sau hàng cây mơ.


 Trời Phật đã thương mẹ tôi nhiều hơn tôi. Mùa thu năm ấy, mẹ tôi từ trần sau những cơn sốt liên miên. Ở nơi hẻo lánh, vì không gần thầy thuốc, vì mẹ tôi quá tin nơi thuốc cổ truyền và số mạng, mẹ đã bỏ tôi lại bơ vơ với vú già và một đôi vợ chồng giúp việc nơi vườn rau. Tôi đã hết nước mắt để khóc. Không ai có thể thấy vực thẳm đau khổ của tôi xuyên qua cặp kính đen, với đôi mí mắt luôn luôn nhắm kín. Cậu tôi và một số thân thuộc được tin đã đến lo việc chôn cất và khuyên tôi về ở với họ chốn An Xuyên là quê hương của cha tôi. Tôi không muốn đi đâu nữa. Dời đến nơi nào, vũ trụ tôi cũng chỉ là một vũ trụ nhỏ bé trong màn đêm. Nơi nhà mẹ tôi, tôi đã quen thuộc những tín hiệu của âm thanh. của mùi hương và thể vật; chúng đã trở thành một quyển sách phong phú tôi dùng được và tìm ra được ít nhiều hứng thú. Tôi nhớ câu chuyện người mù của thi sĩ Lamartine nhắc lại trong hồi ký: “Tôi thấy tiếng kêu của sơn ca buổi sáng, tôi thấy tiếng hót của họa mi buổi chiều…” Tôi cũng có một kinh nghiệm tương tự, hình ảnh nơi đây đã trang điểm cái nhìn bên trong của tôi rồi. Dời đi nơi khác lại cần một thời gian để thích nghi những phản ứng mà tôi xét không còn can đảm và kiên nhẫn đễ vượt lên những khó khăn nửa. Vú già sẽ tiếp tục bảo bọc tôi, và vợ chồng người trông nom vườn cũng hứa tiếp tục đảm đương mọi sự như có mẹ tôi vậy. Đời sống vật chất không thay đổi gì mấy, nhưng vắng mẹ tôi, tôi cảm thấy đến mấy lần mồ côi.


 Khoảng mười ngày sau lễ an táng mẹ tôi, vù già cho biết có ông Nam Đồng đến. Tôi chẳng hiểu những gì trong thâm tâm tôi đã khiến khi gặp lại ông Nam Đồng, người tôi thường gọi là ông, tôi bỗng gọi anh. Cảm xúc của anh không kém. Lần đầu tiên anh cầm tay tôi, vừa an ủi tôi, vừa hỏi về những ngày cuối của mẹ tôi, và những dự định tương lai của tôi. Vú già vui mừng không kém tôi khi mời được anh ấy ở lại dùng cơm trưa. Và anh đã nhận như thể là một cử chì từ tâm, muốn cho tôi cảm thấy bớt hiu quạnh, dù cho chỉ là trong một khoảnh khắc. Nhưng rồi khoảnh thời gian ấy có thể nối dài. Anh đã nhắc lại lời ước vọng năm trước, và lần nầy, cũng chẳng hiểu vì sao, tôi lại bằng lòng. Gánh nặng bây giờ trở nên quá lớn cho vai tôi, tôi cần người phụ lực. Nhưng tôi không muốn ràng buộc anh, hoặc tôi khiếp sợ một cảnh đổ vỡ thê thảm có thể xảy ra sau nầy. Tôi chỉ bằng lòng làm người bạn của anh mà thôi với một số điều kiện. Anh chấp nhận không phải để lấy rồi, mà với sự hiểu biết chín chắn và thành thật.


 Quyết định của tôi xảy ra đồng thời với cuộc chinh chiến. Khói lửa đã lan rộng trên đất nước. Cho đến nơi Ngoạn Mục hiền lành, mùi bom đạn cũng không tha. Bây giờ tôi mừng có anh tôi bên cạnh. Anh đã giẹp bỏ hiệu buôn; những sách vở anh thích đọc, những vật kỷ niệm anh quyến luyến, anh đã chở trên cái xe xưa, đem về nhà tôi. Anh đã tu sửa lại phòng của mẹ tôi bên cạnh phòng tôi, để ở riêng biệt. Anh đã tôn trọng lời hứa, suốt bao nhiêu ngày tháng sống bên tôi, anh chẳng có lời nói, cử chỉ nào vượt qua biên giới chúng tôi đã vạch định. Những chiều lạnh, cùng ngồi cạnh lò sưỡi, anh xem sách, tôi đan áo, tôi nghỉ và mơ ước anh sẽ đến đặt tay trên vai tôi để cho cảm giác gần nhau hơn nữa. Nhưng anh đối xử với tôi như người em gái. Chỉ trong công việc nhà, trông nom vườn rau, trồng thêm hoa quả, giao thiệp với bạn hàng, anh đóng vai trò gia trưởng có trách nhiệm. Đối với vú già, đối với những người giúp việc hay các gia đình lân cận, anh là chồng chính thức của tôi.


 Một buổi sáng, cũng như thường ngày, anh dậy thật sớm. Tôi nhận ra những tiếng động ở phòng bên cạnh, đến phòng bên ngoài. Anh sửa soạn bình tách, pha cà phê, uống một chén, rồi để sẵn phần của tôi trên bàn trước khi rời khỏi nhà. Hôm ấy anh phải đi xem những xe đến chở bắp cải. Nhà vắng tanh, vú già đi chợ. Tôi làm biếng thu gọn mình trong mền ấm, nằm mãi trên giường, vừa nghe nhạc và mơ mộng. Có tiếng chó sủa. Có người làm gì với chó đến nỗi chó không sủa nữa. Những tiếng đi thình thịch vào nhà làm rung rinh thềm ván. Có lẽ anh có việc gì về gấp. Tiếng bước đến gần. Cửa phòng tôi không gài được đẩy ra. “Có phải anh không? Anh cần gì?” Chẳng có tiếng đáp. Tôi vùng dậy Có cánh tay đàn ông choàng lấy thân tôi. “Anh làm gì thế? Đừng! Sao anh quên lời hứa? Em sợ lắm. Đừng, anh!”  “Có gì đâu mà sợ?” Tiếng nói kinh dị. Hơi thở lạ lùng. Một bàn tay thô kệch và hung hãn như chân của thú dữ. Tôi biết không phải anh tôi rồi. Tôi kêu thất thanh: “Ông là ai? Đồ vô loại! Vú già ơi! Cứu tôi, làng xóm ơi! Anh Nam Đồng ơi.” Tôi tưởng tôi sắp chết. Tôi vẫy vùng để thoát vòng tay của tên võ phu. Tôi dùng răng, dùng móng tay để cấu xé nhưng tên khốn nạn không buông tha. Một cái miệng nặc cả mùi rượu, thuốc lá và răng thối, chà trên má tôi. Nó muốn vật tôi lên giường, tôi nhào lăn xuống sàng, đồ đạc bên cạnh giường đổ tung. Tôi nhớ đến cái đồng hồ reo, vờ lấy quăng vào con thú. Đồng hồ đập nát một cửa kính. Tôi muốn lao ra cửa sổ. Tay nó níu chặt tôi lại. Tôi cố la lên cầu cứu. Tôi sắp ngất xỉu.


 Có tiếng chạy thình thịch bên ngoài. Cánh cửa bị đạp tung rất mạnh. Tay kẻ dữ đã thả tôi. Có tiếng thét lên, lúc đầu tôi không nhận ra tiếng của anh tôi. “Mày làm gì trong nhà nầy?” Tiếng thét đầu tiên vang dội, tiếp đến là tiếng ẩu đả. Có những va chạm dữ dội của cây gỗ trên thân hình, trên bàn ghế. Tôi không thể biết ai đang đánh ai, không biết ai chịu những đòn nặng. Tôi không có mắt để giúp anh tôi. Tôi sợ anh tôi bị tên võ phu giết chết. Tôi lần đến cửa sổ kêu vú già, kêu người giúp việc, kêu làng xóm. Hai người đã xô đẩy nhau ra khỏi phòng, rồi ra khỏi nhà.


Những bước chạy thình thịch một chốc rồi tan dần. Có tiếng xe chạy. Một chốc yên lặng kinh hoàng. Tôi đã không còn kêu la được và cũng không thở mạnh được. Tôi lần ra khỏi phòng, không dám gọi, phập phồng trước điều không thể thấy và không thể đoán. Tôi không còn sức để đứng tựa nơi vách tường, tôi đã ngã quỵ xuống.
 Nhưng anh tôi, chứ không phải kẻ võ phu, đã trở về và từ xa đã lên tiếng để yên lòng tôi. “Anh xin lỗi em. Từ nay anh không để em một mình nữa”. Anh ôm tôi, đỡ tôi dậy. Tôi đưa tay rờ nơi má anh, một má ẩm ướt không biết vì mồ hôi hay máu, nước mắt hay nước mưa. Anh cúi đầu xuống và, lần đầu tiên, sau mấy năm quen biết và sống chung, tôi có cảm giác sung sướng lạ lùng khi môi tôi gặp được môi anh.


 Phòng của tôi hư nát cả. Anh biểu tôi, trong khi chờ sửa lại cho xong, tôi qua ở tạm bên phòng anh. Nhưng trong ý tôi, không còn chữ tạm nữa. Chính tôi phá trước lời giao hẹn bao nhiêu dè dặt và lo ngại của tôi không thể còn nữa. Từ nay tôi sẽ mãi mãi với anh và của anh.
 Phải chi chuyện đời tôi chấm dứt nơi đây. Phải chi thời gian dừng lại để cho hạnh phúc của tôi có trong mấy tháng sau đó, được kéo dài vĩnh viễn. Không. Hãy đem cho tôi tất cả những khăn tang trên đời để thấm cho hết nước mắt của tôi. Anh tôi không phải là chiến sĩ nhưng chiến tranh cũng tìm đến anh tôi. trong lúc anh lái xe lên Cầu Đất. Anh đã đi sớm để về sớm, không để tôi một mình lâu, với vú già. Xe anh đã đạp phải mìn.


 Không ai cho phép tôi động đến xác của anh. Tôi đoán chừng lý do là xác anh không còn toàn vẹn, cũng như chiếc xe của anh. Thứ bảy năm nào đó, mới năm nào đó, chiếc xe ấy, và anh ấy, đã đưa mẹ con tôi từ ga Cầu Bảo về. Có phải nước mắt tôi, linh nghiệm hơn bao nhiêu thứ thuốc tôi đã phải uống. Hay có lẽ nào nhờ những lời của Dì phước ở Bệnh viện Mắt hứa cầu xin cho tôi, với Thượng Đế của Dì? Một buổi sáng mùa Xuân, trùng với mùa Phục Sinh, tôi ngạc nhiên thấy được điểm sáng nhỏ, điểm sáng lớn lần. Tôi hét lên một tiếng vui làm cho vú già tôi tưởng một thảm họa khác đã đến với tôi. Tôi thấy rồi. Tôi thấy rồi, vú ơi. Tôi chưa thấy rõ ràng vú. Nhưng điểm ánh sáng đưa cho tôi hy vọng bệnh lòa của tôi dần dần sẽ hết. Quả thật, mấy tuần sau nữa, tôi đã nhận ra những hình vật, khám phá khung cảnh tôi sống, tôi nhìn thấy được hình dáng và màu sắc của những hoa đào ngoài sân, nhìn thấy tất cả chi tiết phòng hạnh phúc ngắn ngủi của tôi nay phải mãi mãi vắng bóng chồng.


 Ánh sáng đã trở lại với tôi, để thay anh, cho tôi khỏi sống dưới sự đe dọa thường xuyên của kẻ võ phu. Hôm ấy, tôi đã hỏi anh tôi có biết tên nào đã tấn công tôi. Anh đã trả lời một cách thãn nhiên: “Em cần gì biết đến lai lịch của một thứ đê tiện. Nó không phải một, nó là nhiều, nó cả một loài, cả từng giống, căn cước của nó là võ lực, cưỡng bức, bạo tàn, sát nhân. Và hính bóng chúng cái nào cũng giống cái nào, biết được một, là biết tất cả. Vì chúng cùng chung một thái độ, một thứ hành vi thất đức. Chúng có từ khi tạo thiên lập địa và sẽ còn mãi mãi trên quả đất nầy. Thứ cặn bã của nhân loại ấy xuất hiện khi nào xã hội suy đồi, cũng như những vật và con thú bẩn trủi lên bờ biển khi nước sạch rút đi xa.


 Với cặp mắt tìm lại được, tôi sẽ biết nhận dạng để đề phòng, để tự vệ. Nhưng anh? Tôi tiếc đến khi thấy đươc cảnh, vật và người chung quanh tôi, tôi không còn có được mặt anh để chiêm ngắm, để nhìn cho tường tận, để đối chiếu với hình ảnh tôi chỉ có bấy lâu nay trong trí tưởng tượng. Tôi tìm mãi trong nhà một giấy tờ nào về anh để biết anh một cách đầy đủ hơn nữa. Tôi không biết tên thật anh là gì, Nam Đồng chỉ là một hiệu bán sách. Tôi không có được một tấm hình của anh để thờ phụng. Có lẽ anh không còn nghĩ đến việc chụp hình khi vợ mình đã mù lòa. Anh chân tình và thâm tình đến thế. Anh kín đáo đến nỗi chỉ xuất hiện và sống bên cạnh tôi khoảng thời gian tôi cần ánh sáng và sự che chở của anh mà thôi. Anh chết đi nhưng vẫn còn nói với tôi biết bao nhiêu điều. Anh không để lại hình ảnh nào, nhưng tôi đã thấy anh, thấy một phần khuôn mặt anh nơi bất cứ đâu có lời nói dịu hiền, nơi bất cứ đâu có hành vi đượm tình thương vô vụ lợi ngọt ngào. Anh. Anh người tôi yêu kính. Ngàn đời em sẽ nhớ anh.

 Cung Giũ Nguyên
(1971)

 

Đọc thêm:

Những bài viết về Thầy/ Nhà văn Cung Giũ Nguyên:

Cung Giũ Nguyên – Tac Giả Và Tác Phẩm (Trương Vũ):

https://phovanblog.blogspot.com/2017/08/cung-giu-nguyen-tac-gia-va-tac-pham.html

Cung Giũ Nguyên: nhà văn của Miền đất dữ (Phạm Văn Quang):

https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/cung-giu-nguyn-nh-van-cua-mien-dat-du/

https://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/cung-giu-nguyn-nh-van-cua-mien-dat-du/

Cung Giũ Nguyên, một “cây bút” của dòng Văn học Việt Nam viết bằng tiếng Pháp (Phạm Văn Quang & Ngân Hà):

https://xunauvn.org/2013/10/21/cung-giu-nguyen-mot-cay-but-cua-dong-van-hoc-viet-nam-viet-bang-tieng-phap/

 




















Không có nhận xét nào:

CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU SÓC TRĂNG THAM QUAN, ỦNG HỘ HOANGDIEUTRUONGXUASAIGON.BLOGSPOT.COM. CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM NHIỀU SỨC KHỎE, THÀNH CÔNG TRONG CÔNG VIỆC.