.

.

a

Hoa đào nở, chim én về, mùa xuân lại đến. Chúc quý thầy cô và anh chị em đồng môn năm mới Giáp Thìn : - nghìn sự như ý, vạn sự như mơ, triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc.
THƯƠNG CHÚC THẦY CÔ, ANH CHỊ EM ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU - MỘT NĂM MỚI AN KHANG THỊNH VƯỢNG - VẠN SỰ NHƯ Ý

Thứ Tư, 3 tháng 1, 2024

Người Việt đầu tiên đến nước Mỹ.

 


Bài: Hà Đình Nguyên
Hiện ở P.Long Bình, Q.9, TP.HCM có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm. Có lẽ ít ai biết đây chính là người đã đặt chân đến nước Mỹ cách đây hơn 170 năm.
Câu chuyện bắt đầu từ năm 1842 (năm Minh Mạng thứ 23) ở làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao (Phú Thọ) có một chàng thanh niên 21 tuổi tên Trần Trọng Khiêm phạm trọng án. Số là người vợ mới cưới của anh bị tên chánh tổng ép bức, làm nhục rồi sát hại. Căm giận, Trần Trọng Khiêm quyết báo thù. Sau khi tương kế tựu kế giết chết tên vô lại, anh trốn xuống Phố Hiến (Hưng Yên) rồi xin vào làm việc trên một chiếc tàu buôn ngoại quốc, khởi đầu cho những chuyến phiêu lưu khắp năm châu bốn biển.
Suốt 12 năm (1842 - 1854), Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất từ Á sang Âu: Hồng Kông, Anh, Hà Lan, Pháp... Nhờ trí thông minh, đi đến đâu anh cũng cố gắng học tiếng địa phương. Năm 1849, anh đặt chân đến thành phố New Orleans (Mỹ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.
Sau khi đến Mỹ, Trần Trọng Khiêm bấy giờ 28 tuổi, cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Viễn Tây. Trong gần 2 năm, Lê Kim sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Anh đã tham gia đoàn đào vàng do một người Canada tên Mark khởi xướng. Để tham gia đoàn này, tất cả thành viên phải góp tiền mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Lê Kim góp 200 USD vào thời điểm năm 1849. Do biết nhiều ngoại ngữ, anh được ủy nhiệm làm liên lạc cho thủ lĩnh Mark và làm phiên dịch cho những thành viên trong đoàn gồm tiếng Hà Lan, Trung, Pháp... (trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene Lefebre (nhà xuất bản Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Canada, Anh, Pháp, Hà Lan, Mexico...). Anh nói với mọi người rằng anh còn biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt nhưng không cần dùng đến. Lê Kim cũng nói anh không phải người Hoa nhưng đất nước của anh nằm cạnh nước Tàu.
Lê Kim và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua dãy núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là Oh! Suzannah (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc...). Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng, nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm - họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ. Sốt rét và rắn độc cũng đã cướp đi quá nửa số thành viên trong đoàn.
Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người tháo vát, xông xáo lại biết nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được làm phóng viên tự do cho nhiều tờ báo như: Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.
Lê Kim hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng làm việc ở những mỏ khai thác vàng là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Nhiều bài báo của anh đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A.Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, anh đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, tướng Sutter bị bệnh tâm thần và sống lang thang ở các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không ai đoái hoài đến.
Khi gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 USD và chê trách thái độ của người dân San Francisco cũng như nước Mỹ đối với người khai phá ra vùng đất San Francisco.
Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng anh cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.
“Người Minh Hương” cầm quân chống Pháp
Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương (người gốc Hoa, không chịu thần phục nhà Thanh nên di dân sang Việt Nam - NV) đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai.
Trong bức thư bằng chữ Nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Mỹ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường.
Chưa đầy 10 năm sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, Lê Kim từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười, trở thành một vị tướng giỏi. Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De La Grandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: “Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.
(Dựa theo tài liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê 1912 - 1984)


Trong thế chiến thứ hai, có một người đàn ông họ Wall tên là Martin. Martin Wall là một tù nhân chiến tranh, bị giam tại trại tù binh ở Siberia, từ đó phải rời xa quê hương Ucraina, bỏ lại người vợ là Anna và cậu con trai Jacob Wall.
Vài năm sau đó, anh ta và gia đình mỗi người một phương, bặt vô âm tín, thậm chí sau khi anh ta bị bắt một thời gian, đến cả việc người vợ Anna sinh thêm một đứa con gái tên là Sonia Wall mà anh ta cũng không hề hay biết.
Thêm một vài năm nữa, Martin được trả tự do, lúc này anh ta kiệt quệ cả về sức khỏe lẫn tinh thần, nhìn bề ngoài như một ông già lọm khọm. Không chỉ có vậy, trên tay và chân của anh còn lưu lại nhiều vết sẹo, điều khiến anh đau lòng hơn nữa, là anh không còn khả năng sinh con.
Sau khi được ra tù, chuyện đầu tiên mà Martin làm là tìm kiếm cô vợ Anna, và cậu con trai Jacob .
Cuối cùng, anh cũng nghe ngóng được tin tức của họ từ hội Chữ Thập Đỏ, người ta nói rằng vợ con của anh đã chết trên đường đi tới Siberia. Martin đau khổ tột cùng .
Đương nhiên, anh vẫn không hề biết rằng mình còn có một cô con gái trên thế gian này.
Thật ra thì, không lâu sau khi Martin Wall bị bắt, Anna đã may mắn đưa được con trai Jacob chạy trốn đến nước Đức. Cô gặp được một đôi vợ chồng nông dân tốt bụng tại đó, đôi vợ chồng này đã giữ mẹ con họ ở lại. Vì vậy, Anna sống yên ổn tại đó, đồng thời cô cũng giúp họ làm việc đồng áng và dọn dẹp nhà cửa.
Cũng vào thời gian này, cô sinh đứa con gái Sonia. Anna tin rằng, chỉ cần Martin còn sống, họ nhất định sẽ trùng phùng, nhất định có thể tạo lập một cuộc sống mới.
Nhưng, đời không là mơ. Vài năm sau đó, cuộc chiến tranh tàn khốc đã đưa nước Đức đến bờ vực của sự thất bại. Anna và hai đứa con vô cùng vui mừng, họ cho rằng sẽ có cơ hội để đoàn tụ với Martin.
Tuy nhiên, điều họ không ngờ là, Hồng quân Liên Xô đã tập trung những người dân di cư như họ lại, đưa họ lên một con tàu đông đúc như tàu chở súc vật, nói rằng đưa họ về nhà, nhưng thực chất là đưa họ đến trại tập trung đầy chết chóc ở Siberia.
Hi vọng của Anna vụt tắt, cô cảm thấy tuyệt vọng, rồi sinh bệnh nặng. Cô cảm thấy mình sống không được bao lâu nữa, chỉ ngày qua ngày cầu nguyện: “Cầu xin ông trời, hãy phù hộ cho hai đứa trẻ bất hạnh của con!”.
Một ngày nọ, Anna gọi Jacob đến bên cạnh và nói: “Con trai của mẹ, mẹ bệnh nặng lắm rồi, có lẽ không sống được bao lâu. Mẹ sẽ ở trên trời phù hộ các con. Jacob, con phải hứa với mẹ, không bao giờ được bỏ rơi em gái Sonia”.
Sáng sớm hôm sau, Anna qua đời. Người ta đem thi thể của cô chất lên xe hàng và chở đến một khu nghĩa địa đầy rẫy những ngôi mộ vô danh. Còn hai đứa trẻ thì bị đem lên tàu hỏa, đưa đến một cô nhi viện gần đó.
Còn Martin – người đang chìm đắm trong tuyệt vọng, lúc này đang làm việc như cỗ máy trong một nông trang. Một buổi sáng, Martin gặp Greta – một cô gái làm cùng nông trang với anh. Greta luôn mỉm cười để ý đến anh.
Martin không ngờ rằng, cô gái luôn lạc quan yêu đời, thông minh lanh lợi này lại là bạn học hồi xưa của mình. Bôn ba nhiều nơi, trải qua thời gian thăng trầm, xảy ra vô số sự việc, mà họ lại có thể gặp nhau ở đây, thật là thần kì!
Chẳng bao lâu sau, họ tổ chức hôn lễ. Martin cảm thấy cuộc sống của mình tìm lại được ánh mặt trời, cuộc sống lại trở nên có ý nghĩa. Greta cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Nhưng cô luôn mong mỏi bản thân có một đứa con để yêu thương, chăm sóc.
Đến một ngày, Greta khẩn cầu với chồng: “Martin, có nhiều đứa trẻ trong cô nhi viện, chúng ta hãy nhận một đứa về nuôi có được không?”.
Martin phản bác: “Greta, sao em lại có ý nghĩ như vậy, anh không thể chịu thêm bất cứ sự đả kích nào nữa, em có hiểu không?”. Greta vô cùng buồn bã.
Nhưng cuối cùng tình yêu mãnh liệt của cô dành cho trẻ em đã thuyết phục được Martin. Vào một buổi sáng, Martin nói với Greta: “Đi nào, chúng ta đi đến cô nhi viện nhận nuôi một đứa trẻ”.
Greta vui mừng khôn xiết, lập tức lên tàu đi đến cô nhi viện.
Greta bước trên hành lang tối tăm của cô nhi viện, nhìn về phía lũ trẻ đang xếp thành hàng, chăm chú quan sát, cân nhắc. Nhìn thấy những khuôn mặt trầm mặc, những ánh mắt cầu xin của lũ trẻ, Greta chỉ muốn mở rộng vòng tay ôm lấy tất cả chúng vào lòng và đưa về nhà. Nhưng cô biết rằng, điều đó là không thể.
Đúng vào lúc này, có một đứa trẻ cười thẹn thùng bước về phía cô. Greta quỳ xuống, xoa đầu đứa trẻ: “Cháu à, cháu có đồng ý đi theo cô không? Đến một nơi có cả cha lẫn mẹ?”.
“Đương nhiên cháu đồng ý, nhưng cô đợi chút, cháu đi gọi anh trai. Chúng cháu phải đi cùng nhau, cháu không thể bỏ lại anh trai mình được”.
Greta cảm thấy vô cùng băn khoăn, bất lực lắc đầu: “Nhưng cháu à, cô chỉ có thể đưa một mình cháu đi thôi”. “Không, cháu muốn đi cùng anh trai mình. Trước đây chúng cháu cũng có mẹ, khi mẹ qua đời đã dặn dò anh trai không được bỏ rơi cháu”.
Lúc này, Greta cảm thấy bản thân không muốn chọn bất kì đứa trẻ nào khác, bởi vì đứa trẻ trước mặt cô vô cùng đáng yêu, đã thu hút toàn bộ sự chú ý của cô. Tuy nhiên, cô nghĩ rằng mình phải về thương lượng lại với Martin.
Khi về đến nhà, Greta lại khẩn cầu Martin: “Martin, có một chuyện em muốn thương lượng với anh. Em phải nhận nuôi hai đứa trẻ, bởi vì đứa trẻ mà em chọn có một người anh trai, nó không thể rời bỏ anh trai của mình. Em mong anh đồng ý nhận nuôi đứa trẻ này được không?”
“Greta, vậy sao em không chọn đứa trẻ khác, mà lại nhất quyết là bé gái này? Theo anh thấy thì tốt nhất đừng chọn đứa nào cả”.
Lời nói của Martin Wall, khiến Greta vô cùng đau lòng, cô thậm chí còn không muốn đi cô nhi viện nữa. Nhìn thấy bộ dạng buồn bã của Greta, trong lòng Wall chợt trào dâng niềm thương cảm. Tình yêu rốt cuộc lại giành chiến thắng.
Lần này, Martin và Greta cùng đi đến cô nhi viện, Martin cũng muốn gặp đứa bé gái đó. Đứa bé gái ra ngoài hành lang tiếp đón họ, lần này, cô bé nắm chặt tay cậu bé đi cùng. Đó là một cậu bé gầy gò, trông rất yếu ớt, nhưng cặp mắt của cậu bé lại ngập tràn sự dịu dàng và lương thiện. Lúc này, cô bé mở to đôi mắt sáng lóng lánh, nhẹ nhàng hỏi Greta: “Cô đến đón chúng cháu phải không?”
Greta chưa kịp trả lời, thì cậu bé đứng bên cạnh đã mở lời: “Cháu đã đồng ý với mẹ là sẽ không bao giờ bỏ rơi em gái. Khi mẹ cháu mất, cháu đã hứa như vậy. Vậy nên, đáng tiếc là em gái cháu không thể đi cùng với hai người”.
Martin âm thầm quan sát hai đứa trẻ vừa đáng yêu lại đáng thương này. Một lát sau, anh tuyên bố đầy quả quyết: “Chúng tôi nhận cả hai đứa trẻ này”.
Martin đã bị cậu bé gầy gò ốm yếu trước mắt thu hút đến nỗi không thể kháng cự nổi nữa rồi.
Vậy là Greta đưa hai anh em đi thu dọn quần áo, Martin đến văn phòng làm thủ tục nhận nuôi. Sau khi Greta thu dọn đồ đạc, đưa hai đứa trẻ đến văn phòng, liền thấy Martin bần thần lúng túng đứng ở đó. Gương mặt trắng bệch, đôi tay run rẩy, dường như không dám kí vào thủ tục nhận nuôi.
Greta sợ hãi hỏi: “Martin! Anh làm sao vậy? Martin?”
“Greta, em nhìn những cái tên này xem!”. Greta nhận lấy tờ thủ tục nhận nuôi có ghi tên hai đứa trẻ: “Jacob Wall; Sonia Wall, Mẹ: Anna (Bartel) Wall; Cha: Martin Wall”.
“Em có biết không Greta, hai đứa trẻ này là con ruột của anh! Một là đứa con trai mà anh tưởng rằng đã chết từ lâu, một là đứa con gái mà anh chưa từng gặp mặt!”
Martin xúc động đến nỗi nước mắt nhạt nhoà, anh vừa nói vừa quỳ xuống, ôm chặt hai đứa trẻ vào trong lòng, thán phục nói: “ Nhiệm màu, thật là nhiệm màu! Ôi! Cảm ơn trời đất đã phù hộ chúng tôi ! Greta, nếu như không phải em đã thỉnh cầu anh nhận nuôi chúng, nếu như không có trái tim nhân ái của em, có lẽ anh đã không thể gặp được kì tích này mất rồi”.
Sưu tầm
My Lan Phạm



XE ĐIỆN - CÚ LỪA LỚN NHẤT THẾ GIỚI.

Có ai từng nghĩ về điều này chưa ?
"Nếu tất cả ô tô đều chạy bằng điện...
Và nếu chúng ta bị kẹt xe kéo dài vài ba giờ đồng hồ trong cái lạnh âm độ của bão tuyết, pin xe của chúng ta sẽ hết sạch.
Vì xe điện về cơ bản không có hệ thống sưởi ấm nhiều giờ.
Lúc đó bạn có thể gọi các dịch vụ khẩn cấp bảo vệ phụ nữ và trẻ em, nhưng họ không thể giúp được gì vì mọi con đường đều bị đóng băng và xe cảnh sát có thể cũng chạy bằng điện hết Pin luôn.
Và nếu đường phố bị tắc nghẽn bởi hàng nghìn chiếc ô tô, sẽ không ai có thể tiến về phía trước. Bạn sạc pin chỗ nào lúc này. Ùn tắc giao thông là vấn đề tương tự ngay cả trong những ngày nghỉ lễ.
Trong thời gian ngắn, sẽ không thể bật điều hòa trên ô tô điện, nếu không Pin của bạn sẽ hết ngay lập tức.
Tất nhiên, cho đến nay không một chính trị gia hay nhà báo nào nói về điều đó, nhưng nó sẽ xảy ra nay mai.
Xe điện tiện ích hay là vụ lừa đảo lớn nhất lịch sử loài người ?
Theo tạp chí Đức.


CHỈ HOAN NGHÊNH NGƯỜI, KHÔNG HOAN NGHÊNH TIỀN BẠC...!

Năm 1905, khi đang hoạt động ở Nhật Bản thì Phan Bội Châu và Tăng Bạt Hổ rủ nhau lên Tokyo để tìm một người bạn Trung Quốc có tên Ân Thừa Hiến.
Khi xuống tàu hỏa, Phan Bội Châu liền gọi một người phu xe và đưa cho anh ta tấm danh thiếp của Ân Thừa Hiến để nhờ tìm địa chỉ. Người phu xe này không biết chữ Hán, nên đã đề nghị Phan Bội Châu đợi, để mình tìm một người phu xe khác biết chữ Hán để có thể giúp đỡ.
Cuối cùng, người phu xe biết chữ Hán cũng xuất hiện và đã đưa Phan Bội Châu - Tăng Bạt Hổ đến địa chỉ của Ân Thừa Hiến. Nhưng khi xe đến Chấn Võ Học Hiệu - nơi tá túc của Ân Thừa Hiến thì mới vỡ lẽ, người bạn Trung Quốc này đã chuyển đi nơi khác, và không ai biết "nơi khác" cụ thể ở đâu.
Nghĩ ngợi một lúc, người phu xe liền nói với hai vị khách Việt Nam: "Xin các ngài cứ chờ tôi một chút, tôi sẽ đi tìm địa chỉ mới của Ân Thừa Hiến rồi quay lại đón 2 ngài".
Hai vị khách Việt Nam đứng chờ từ 2 giờ chiều, đến 3 giờ, rồi 4 giờ chiều vẫn không thấy người phu xe quay lại, liền nghĩ: Tokyo rộng thế này, biết tìm Ân Thừa Hiến ở đâu. Nhưng đến 5 giờ chiều thì người phu xe bất ngờ quay lại và cho biết đã tìm được nơi cần tìm.
Thế là người phu xe đưa hai vị khách Việt đi thêm 1 tiếng nữa đến một lữ quán có treo biển "Thanh quốc Vân nam lưu học sinh Ân Thừa Hiến". Tất cả cho thấy người phu xe Nhật Bản đã tận tuỵ với công việc của mình như thế nào.
Nhưng chưa hết, khi Phan Bội Châu hỏi tiền công thì người phu xe nói một con số khiến cụ Phan giật mình: "2 hào 5 xu".
Thấy số tiền quá rẻ, Phan Bội Châu rút ra một đồng bạc để trả nhưng người phu xe kiên quyết từ chối với lý do: "Theo quy định thì từ nhà ga Tokyo đến lữ quán này, giá chỉ là 2 hào 5 xu thôi.
Thêm nữa, hai ông vì văn minh nước Nhật mà đến đây, chúng tôi hoan nghênh các ông, chứ không hoan nghênh tiền bạc của các ông. Nếu các ông cho tôi tiền xe vượt quá quy định thì không khác gì coi thường, khinh bạc người Nhật Bản chúng tôi".
Đây là một câu chuyện có thật, được viết lại trong tác phẩm "Tự Phán" nổi tiếng của Phan Bội Châu. Khi kể lại câu chuyện này, đặc biệt là tâm trạng của mình khi hỏi giá tiền người phu xe Nhật Bản, Phan Bội Châu cho biết: "Sợ nó cũng một nết như phu xe nước mình thì e cũng khốn nạn với vấn đề đòi tiền".
Và sau khi bày tỏ sự cảm thán trước một người phu xe Nhật Bản giàu lòng tự trọng thì Phan Bội Châu đã thốt lên :
" Chao ôi ! Trí thức, trình độ dân nước ta xem với tên phu xe Nhật Bản chẳng đáng chết thẹn lắm hay sao ".
FB Rosa Cỏ Xanh


Cách nay 165 năm bên Mỹ, ông Hymen Lipman được cấp bằng sáng chế. Mà sáng chế này vô cùng đơn giản là cái cục tẩy gắn vô cây bút chì.
Năm ông nảy ra sáng kiến này chính là 1858 ( trùng thời điểm Pháp xâm lược VN). Mà lúc đó ông đã là nhà sáng chế nhận Bằng sáng chế số 19.783 của Mỹ.
Tức là thời đó Mỹ đã có nhiều sáng chế lắm rồi.
Ông Lipman sanh năm 1817 ở Jamaica, cha mẹ người Anh rồi cả nhà di dân tới Mỹ năm 1829. Đến năm 1840, khi 23 tuổi thì Lipman trở thành nhân viên văn phòng phẩm hàng đầu trong thị trấn và năm 1843 thành lập công ty phong bì đầu tiên ở Mỹ.
Vì rành nghề văn phòng phẩm nên ổng mới nghĩ ra vụ cục tẩy gắn vô bút chì.
Lipman đã bán bằng sáng chế này cho ông Joseph Reckendorfer sau đó với giá 100.000 đô la, lúc đó là rất nhiều tiền, nay tính ra chắc tương đương tiền vài triệu usd mất.
Tóm lại Mỹ rất ưa sáng chế từ thời xửa thời xưa. Bằng sáng chế đầu tiên của Mỹ được cấp cho Samuel Hopkins về quy trình sản xuất potash, một thành phần dùng trong phân bón vào ngày 31/7/1790. Tổng thống George Washington đã ký bằng sáng chế đầu tiên.
Để có bằng sáng chế, trước đó vào năm 1788, Hiến pháp Mỹ đã được phê chuẩn vào ngày 21 tháng 6. Hiến pháp bao gồm điều mà ngày nay được gọi là điều khoản sở hữu trí tuệ: Điều I, Mục 8, Điều khoản 8.
Năm 1790 Quốc hội đã thông qua đạo luật bằng sáng chế đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 4. Sau khi đạo luật được thông qua, Ban Bằng sáng chế đầu tiên, gồm có Ngoại trưởng Thomas Jefferson, Bộ trưởng Chiến tranh Henry Knox và Bộ trưởng Tư pháp Edmund Randolph, bắt đầu kiểm tra các bằng sáng chế.
Tức là Mỹ lập quốc chưa bao lâu thì họ đã tính tới chuyện thúc đẩy dân sáng chế và phát minh. Vì vậy dân họ lao vào sáng chế phát minh ầm ầm luôn. Ngay Tổng thống Mỹ Lincoln cũng lao vào sáng chế và ông nhận bằng sáng chế số 6469: "Cách làm nổi những con tàu lớn", được coi là bằng sáng chế đầu tiên của 1 vị TT Mỹ.
Từ đó tới nay Mỹ cấp mười mấy triệu bằng sáng chế, chưa kể phát minh.
Dân Mỹ là dạng ăn xong ngồi sáng chế quá trời thứ cho nhân loại luôn.

Facebook Nguyễn Thị Bích Hậu 





Đất Hà Tiên với họ Mạc và họ Lâm.
Nam Việt là một “tặng phẩm” của sông Cửu Long. Hàng vạn năm trước là biển, sông Cửu Long chở phù sa xuống, rồi lần lần mà thành đồng ruộng. Thời tiền chiến, tôi không nhớ rõ là năm một ngàn chín trăm ba mươi mấy, người ta đào được những đồng tiền vàng La Mã ở Óc eo (gần chân núi Ba Thê), vậy thì vào khoảng đầu công nguyên, biển vô tới Óc eo hoặc cách Óc eo không bao xa, chỉ vài ba cây số. Hồi đó các núi ở Hà Tiên, Ba Hòn, Hòn Trẹm chắc còn nằm ngoài biển, không biết từ thế kỷ thứ mấy, miền ấy mới được bồi xong. Ngày nay ai đi qua Ba hòn, còn thấy trên những núi đá vôi ở sát lộ Rạch Giá – Hà Tiên, có những ngấn nước cao hơn mặt đất khoảng một thước. Vậy thì vùng bờ biển đó chắc cũng đã được dâng lên nữa, ngoài hiện tượng được phù sa bồi.
Dãy núi từ Hà Tiên tới Hòn Trẹm ấy hiện nay nằm sát hoặc gần bờ biển, nhìn ra các hòn ngoài khơi: hòn Phụ Tử, hòn Heo, hòn Ngang, hòn Một, hòn Phú Quốc… và quay lưng lại một cánh đồng bát ngát (xưa là rừng, nay vẫn còn đất phèn), xa xa vài chục cây số mới có dãy núi Thất sơn. Như vậy là Hà Tiên là một miền hẻo lánh nơi chân trời góc biển. Trước năm 1930, khi chưa có con đường trải đá Rạch Giá – Hà Tiên thì thị trấn ấy gần như cô lập với các miền chung quanh: muốn xuống Rạch Giá phải dùng đường biển, mất nửa ngày, mà muốn vô Châu Đốc thì phải đi vòng lên biên giới, mượn một con đường trên phần đất Cao Miên.
Nó đã cô lập mà lại kì đặc, không giống một miền nào khác. Thi sĩ Đông Hồ trong cuốn Văn học Hà Tiên (1) đã tả nó như sau:
“Ở đó (Hà Tiên), kỳ thú thay, như gồm hầu đủ hết.
Có một ít hang sâu động hiểm của Lạng Sơn. Có một ít ngọn đá chơi vơi giữa biển của Hạ Long. Có một ít núi vôi ở Ninh Bình, có một ít thạch thất sơn môn của Hương Tích. Có một ít Tây hồ, một ít Hương giang. Có một ít chùa chiền của Bắc Ninh, lăng tẩm của Thuận Hóa. Có một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng, có một ít Nha Trang, Long Hải.
Ở đây không có cảnh nào to lớn đầy đủ; ở đây chỉ nhỏ nhắn, xinh xinh, mà cảnh nào cũng có”.
Tóm lại, nó là một tiểu vũ trụ biệt lập, rất hợp cho kẻ nào có chí vẫy vùng, muốn nghênh ngang một cõi.
Họ Mạc
Kẻ đó là họ Mạc ở cuối thế kỷ XVII.
Cũng như Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu không chịu nhận chủ quyền Mãn Thanh, bỏ quê hương mà dắt bộ hạ xuống miền Nam Hải, nhưng Dương và Trần ghé vào Quảng nam (1679) qui phục chúa Nguyễn Phúc Tần, được chúa cho vào chiếm đất Đồng Nai và Mĩ Tho để tự kinh lí lấy mà lập nên một nơi buôn bán thịnh vượng là Cù lao Phố (Biên Hòa); còn Mạc thì tiến xa hơn, tới địa phận Chân Lạp (cũng gọi là Giản phố trại) – tức Cao miên, tức Campuchia – vào khoảng 1671 (theo Trần Kinh Hòa trong Hà tiên Mạc thị thế hệ khảo – Hoa Cương học báo) làm chức “ốc nha”, một chức quan lớn Chân Lạp, năm 1700 xin vua Chân lạp ra khai khẩn miền Banteay Meas, tức Mang Khảm, mới đầu mở sòng bạc, sau qui tụ các người Hoa, Việt, Miên, lập ấp, mở khẩu, thành lập một tiểu quốc, nhưng thường bị giặc Xiêm quấy nhiễu, nên năm 1708, nhận sự bảo hộ của chúa Nguyễn Phúc Chu. Mạng Khảm từ đó đổi tên là Hà Tiên, thành một cửa ngõ Chân Lạp mà thuộc về Việt Nam, xuất cảng hầu hết các sản phẩm Chân Lạp.
Nếu chỉ là một hải khẩu thì dù ghe tàu tấp nập, cũng chưa có gì đặc biệt. Điều đáng cho ngày nay chúng ta nhắc nhở nhất là tiểu quốc đó chỉ trong nửa thế kỉ đã thành “một văn hiến quốc” ở giữa một miền hẻo lánh, y như một đầm sen giữa cánh đồng hoang vậy, khiến ai cũng phải ngạc nhiên.
Công ấy là nhờ Mạc Thiên Tích (2), con của Mạc Cửu. Thiên Tích kế nghiệp cha, là đô đốc Hà Tiên năm 1735, thì ngay năm sau, 1936, thành lập Chiêu Anh các, một tao đàn kiêm một nghĩa thục, có thờ Khổng Tử. Ông cha Trung hoa, mẹ Việt (3), rất đa tài: trị nước, ngoại giao, cầm quân, đặc biệt là có tài văn thơ mà lại rất trọng tiếng Nôm, chiêu tập được 36 (có sách chép là 32) văn nhân thi sĩ vô Chiêu Anh các (gọi là tam thập lục kiệt), trong số đó sáu vị là người Việt, còn thì là Trung hoa, người Minh hương, họ từ Thuận, Quảng vô hoặc từ Gia Định tới, hoặc từ Quảng Đông, Phúc Kiến sang. Thiên Tích làm nguyên soái.
Theo Trịnh Hoài Đức, họ sáng tác được sáu bộ sách gồm ba tập truyện và ba tập thơ. Ba tập truyện này đã lạc, còn ba tập thơ thì có lẽ là:
– Tập Hà tiên thập vịnh gồm 320 bài (4), toàn bằng thơ Hán, mỗi bài do Mạc Thiên Tích thủ xướng, còn các bài kia do các vị trong Chiêu Anh các họa.
– Tập Hà tiên thập cảnh khúc vịnh bằng thơ nôm của Mạc Thiên Tích.
– Tập Minh Bột di ngư thi thảo gồm những bài thi, phú chữ Hán cũng của Thiên Tích.
Hai tập trên còn được trọn vẹn, tập cuối chỉ còn sót vài bài.
Những sáng tác của nhóm Chiêu Anh các nổi tiếng ngay từ thời đó, và Lê Quý Đôn trong tập “Phủ biên tạp lục” (1776) đoạn chép về họ Mạc ở trấn Hà Tiên, khen rằng: “Không thể nào ở hải ngoại xa xôi không có văn chương”, rồi trong Kiến văn tiểu lục lại khen: “văn thơ nhiều bài hay lắm”. Có giá trị nhất là những bài thơ cả chữ Hán lẫn chữ Nôm của Mạc Thiên Tích.
Ngay những người ngoại quốc cũng nhận Hà tiên là đất văn hiến. Các giáo sĩ trong dòng Franciscan bảo:
“Trong xứ (Hà Tiên) có miếu thờ Khổng Tử mà từ vương (tức Thiên Tích) đến dân ai cũng thờ. Có một nhà nghĩa học dạy các thanh niên ưu tú, nghèo không thể tự túc theo học được. Những người Trung hoa sang đây mà có khả năng văn học thì mới được mời đến đó dạy học.” (5)
Còn sách Văn hiến thông thảo đời Thanh vào năm 1747 chép rằng “phong tục (Hà Tiên) trong văn học, thích thi thơ, có cả một hàn lâm viện nhỏ.” (6)
Trong khi đó đừng nói chi Gia Định, ngay cả ở Thuận Hóa cũng chẳng có một thi đàn nào cả. Sự kiện ấy quả thực chưa hề xảy ra trong lịch sử văn học. Ta thử tưởng tượng một nhóm người di cư qua một nước tuy là đồng văn nhưng vẫn là lạ, dựng nghiệp ở một nơi hẻo lánh nhất, mà chỉ nửa thế kỉ sau, làm cho nơi đó thành một đất văn vật nhất trong cõi, góp công vào văn học xứ đó bằng chữ của mình và bằng cả thổ ngữ, thì có lạ không chứ!
Tiếc thay nền văn học Hà Tiên bừng lên rực rỡ được có 31 năm; đến năm 1771, Hà Tiên bị quân Xiêm đánh chiếm, Thiên Tích phải chạy về Gia Định. Chiêu Anh các tan rã, sách vở bị tiêu hủy; năm 1778, Thiên Tích phải trốn tránh Tây Sơn, qua Xiêm, và hai năm sau, 1780, ông tuẫn tiết ở kinh đô Xiêm; từ đó Hà Tiên cũng cùng họ Mạc mà suy tàn.
Họ Lâm
Trong một trăm rưỡi năm, Hà Tiên thiêm thiếp ngủ yên trên bờ vịnh Thái Lan, chỉ còn là một thị trấn nhỏ ở biên giới không ai nhắc nhở tới. Tới khoảng 1926-28 nó mới lại được nhắc nhở, vì là quê hương của Đông Hồ Lâm Tấn Phác, một nhà văn mới cầm bút mà đã nổi tiếng ngay về bài khóc vợ Linh Phượng (tức Trác Chi lệ kí tập – Trác Chi là tên tự của ông, Đông Hồ là tên hiệu), và bài Phú Đông Hồ, lại sáng lập Trí Đức học xá, trường đầu tiên trong nước chuyên dạy tiếng Việt.
Ngày nay tên Đông Hồ đã quá quen thuộc, phải lùi lại thời đó, trên bốn chục năm trước – mới thấy ngôi sao Đông Hồ rực rỡ ra sao. Khắp nước chỉ có mỗi một tạp chí văn học, tờ Nam Phong; ai muốn được coi là trí thức cũng phải đọc Nam Phong, có thể nói ở Nam Việt làng nào cũng có người mua dài hạn Nam Phong; mà nhóm Nam Phong hầu hết gồm các học giả Bắc, chỉ có vài nhà gốc ở Trung. Vậy mà một người Nam, lại ở Hà Tiên nữa, mới ngoài hai mươi tuổi, chẳng có bằng cấp, thành tích gì cả mà chen chân được vào cái “hội” đó thì quả là phi thường. Chẳng những chen chân lại còn sắp vào hàng kiện tướng, viết nhiều và đủ loại, thơ, nghị luận, tùy bút, lịch sử, du kí. Đặc biệt nhất là giọng văn, y như một nhà cựu học đất Bắc có pha chút tân học, bóng bẩy, tô chuốt, du dương, trang trọng, thường dùng tiếng Bắc, khác hẳn giọng quá tự nhiên và hơi thô của các cây bút trong Nam thời đó.
Sở trường ấy của ông, khoảng mươi năm nay một số người chê là sở đoản. Trong văn chương cũng như trong mọi nghệ thuật khác, thị hiếu thường thay đổi, có vậy mới tiến hóa, nhưng có người quá khích không nhận ông là nhà văn miền Nam nữa, trách ông sao không theo trào lưu văn học miền Nam từ trước tới đầu thế chiến vừa rồi, nghĩa là trào lưu văn học bình dân, giữ màu sắc và ngôn ngữ địa phương, chẳng hạn như nhà văn Hồ Biểu Chánh.
Dĩ nhiên những lời chê đó tới tai ông, nhưng tôi không bao giờ thấy ông lên tiếng, chỉ mới rồi trong cuốn Văn học Hà tiên, ông gián tiếp trả lời như sau:
“Đọc những sách báo quốc ngữ miền Nam xuất bản khoảng từ 1900 đến 1920, chúng ta thấy có một lối viết lỏng lẻo, hời hợt, mất hẳn văn hóa cố hữu, tế nhị, cổ truyền của hai miền Trung, Bắc (…)
Mãi cho đến sau thế chiến thứ nhất 1914-18, nhờ cuộc giao thông tiện lợi, phong trào sách báo ở Hà Nội truyền được vào Nam, tình trạng bế tắc này mới thay đổi. Bắt đầu là Nam Phong tạp chí (1917-1934) rồi đến Phong Hóa, Ngày nay ở Hà Nội (1932-40) báo Tiếng Dân ở Huế (1927) (…)
Và từ 1925 về sau, có những nhà thơ, nhà văn giả từ miền Bắc, miền Trung vào làm báo ở Sài Gòn, như những Tản Đà, Ngô Tất Tố, Phan Khôi, Đào Trinh Nhất, Bùi Thế Mỹ, Thiếu Sơn v.v… Chính họ là sứ giả văn hóa cho thời kỳ này (…)
Từ đó văn học miền Nam dần dần khởi sắc và cũng từ đó mất dần tính cách đặc thù địa phương mà hòa đồng, thống nhất với văn hóa dân tộc hai miền Trung Bắc.”
Vậy thì chủ trương của ông thật rõ rệt: phụng sự văn học dân tộc chứ không phải văn học địa phương, để thống nhất ba miền.
Sở dĩ ông có chủ trương ấy – từ hồi nào tôi không rõ, nhưng chắc là sớm lắm – nhờ ông sinh ở Hà tiên trong một gia đình Nho học.
Hà tiên thuộc về miền Tây mà miền Tây chịu ảnh hưởng đậm của những lưu dân Trung hoa. Sách Văn hiến thông thảo (do Hãn Nguyên trích bài dẫn trên) chép về sinh hoạt ở Hà Tiên thời Mạc Thiên Tích:
“Nhà cửa không khác Trung quốc, từ nhà vương (Mạc Thiên Tích) tất cả đều làm bằng gạch lợp ngói. Trong cách ăn mặc, họ bắt chước triều đại trước (nhà Minh), Vương bới tóc lưới, đội khăn hay mũ bằng nhiễu, mình mặc áo thêu rồng, đai bằng sừng, mang hia. Ngày thường họ dùng đủ màu (…) Gặp thì họ chấp tay chào nhau.”
Tới gần đây, nghĩa là sau hơn hai thế kĩ, Hà Tiên còn giữ được ít nhiều màu sắc Trung Hoa từ phong tục, cách ăn ở tới ngôn ngữ, giao tế; còn miền Đông, từ Vĩnh long trở ra Biên hòa, Bà rịa, chịu ảnh hưởng của những lớp Nam tiến cuồn cuộn từ miền Trung vô; hạng người tiền đạo này tháo vát, tự nhiên, ưa thứ văn chương bình dân hơn.
Tổ tiên của Đông Hồ gốc gác ở Phúc Kiến (Hoa Nam) có lẽ cũng qua Việt nam với họ Mạc (Mạc Cửu có dùng một quan kí lục họ Lâm), đời đời theo Nho học, và cụ Hữu Lân, bá phụ của Đồng Hồ nổi tiếng văn hay chữ tốt. Thiếu thời Đông Hồ được cụ dạy dỗ, đào tạo trong nền cổ học, gần như không ra khỏi Hà tiên, không được đọc gì khác ngoài văn thơ Hán Nôm. Vì vậy tâm hồn ông gần với tâm hồn các nhà Nho Bắc, Trung hơn các người Nam đồng thời với ông ở miền Đông, chẳng hạn Hồ Biểu Chánh. Vì vậy mà hai mươi mốt tuổi ông đã làm được bài Phú Đông Hồ, khiến các nhà Nho phải phục. Vì vậy mà ông được nhận ngay vào phái Nam Phong, và suốt đời có nếp sống của nhà Nho, có thiện cảm với các nhà văn Bắc, Trung. Lần lần tinh thần ông hơi thay đổi, mới hơn nhiều nhà trong nhóm Nam Phong, mà rán hòa với trào lưu mới, nhưng cốt cách, bút pháp thì hồi ba mươi tuổi đã định rồi. Nhờ vậy, ông là nhà văn, nhà thơ đầu tiên trong Nam bắt cầu Nam Bắc, mở đường cho sự “thống nhất văn học dân tộc” như ông nói.
Đó là mục đích thứ nhất trong đời ông.
Mục đích thứ nhì là nối lại sự nghiệp văn học của Mạc Thiên Tích đã bị gián đoạn trong một thế kĩ rưỡi.
Một thanh niên sanh trong một gia đình có truyền thống văn học, tại một nơi danh thắng đã có một thời nổi tiếng là “văn hiến quốc”, từ hồi nhỏ, mắt đã được thấy làn nước Đông Hồ, ngọn núi Tô châu, chân được dạo những chốn còn lưu lại di tích tiền nhân như Kim Dự, Bình San, Tiêu Tự, Giang Thành, tai được nghe những chuyện hồi thịnh thời Mạc Thiên Tích cùng những văn thơ Hán, Nôm của nhóm Chiêu Anh các, một thanh niên được gặp những hoàn cảnh may mắn đó mà lại anh tuấn, mới mười bốn, mười lăm tuổi đã được khen là thơ có khẩu khí, rồi hai mươi hai tuổi danh vang ra tới đất Bắc, nhờ một bài có giọng lãng mạn như Từ Trẩm Ái (bài Linh Phượng) và một bài cổ kính mà hoa mĩ như văn Lục Triều (bài Phú Đông hồ); một thanh niên như vậy nhất định là yêu quê hương tha thiết, tự hào về nó nữa và hoài bão cái chí làm vẻ vang cho quê hương, nếu không nối nghiệp được tiền nhân thì ít nhất cũng làm cho người trong nước nhớ rằng “nơi hải ngoại xa xôi này không phải không có văn chương” (lời Đông Hồ).
Ông nhũn nhặn, kín đáo, không thổ lộ tâm sự, chí hướng với bạn, nhưng trong một lúc xúc động mạnh, viết thư cho tôi, ông đã thú rằng “làm con, tôi đã để cho bác tôi nỗi khổ tâm vì tôi nghĩ rằng tôi ‘quá’ thông minh”. Vậy ông đã tự tin lắm, nhận được giá trị của mình ngay từ thiếu thời và điều tôi đoán rằng ông có lúc muốn lập nên một sự nghiệp về văn học như Mạc Thiên Tích, điều đó chắc không xa sự thực.
Thời đại ông không phải thời đại Mạc Thiên Tích, Hà tiên không còn là một tiểu quốc mà chỉ là một thị trấn nhỏ, mà địa vị một giáo viên sơ học dưới thời Pháp thuộc lại càng không thể so sánh được với địa vị một vị hầu dưới triều chúa Nguyễn (Thiên Tích được phong là Tông Đức hầu), cho nên sự nghiệp của ông khác hẳn của Thiên Tích.
Không thể lập được một Chiêu Anh các thì ông ráng dựng Trí Đức học xá, cũng là một nghĩa thục như nghĩa thục của Chiêu Anh các; chưa có đủ tư cách kết nạp các anh tài trong nước để thành lập một tao đàn thì ông đào tạo lấy một số môn sinh cho giỏi Việt ngữ, hiểu được thơ văn, nhất là thơ văn cổ, rồi ông lại khuyết trương thêm, mở lớp hàm thụ đầu tiên dạy Việt văn, và ảnh hưởng của ông lan khắp lục tỉnh, nhiều người yêu văn chương ở Hà tiên, Biên hòa, Tây ninh… nghe tiếng gọi là “hồn Đại Việt” của ông mà cùng với ông trau giồi “giọng Hàn Thuyên”.
Không có Đại thành điện, Khuê văn lâu… như Tông Đức hầu, thì ông có Vạn quyển thư lâu, Vương giả hương đình, Quỳnh Lâm thư thất… tuy chẳng lộng lẫy, nhưng sách quí, tranh quí và nét bút của cổ nhân và của chính ông thì chất, treo đầy tường; mà hương trầm, hương mai, hương lan, hương huệ thường tỏa ngào ngạt mỗi khi có bạn văn tới; ai cũng phải nhận rằng về phương diện đó ông là bậc “vương giả” trong giới tao nhân Việt nam. Cho nên năm 1961, khi viên thư kí Hàn lâm viện Ấn Độ, K.F. Kripalani, qua Sài Gòn để tìm những kỉ niệm về thi hào Tagore thì nha Văn hóa bối rối, không biết tiếp vị khách ấy ở đâu cho trang nhã, có vẻ “văn hóa” một chút, phải xin mượn Yễm Yễm thư trang vậy.
Những hoạt động cùng phong cách đó của họ Lâm có thể chỉ là ngẫu nhiên ám hợp với những hoạt động cùng phong cách họ Mạc, nghĩa là xuất phát từ phần tiềm thức, nhưng dù vậy đi nữa, tôi nghĩ cũng cần ghi lại cho văn học sử.
Tôi không rõ môn sinh của Đông Hồ tại Trí Đức học xá và trong các lớp hàm thụ, trước sau được bao nhiêu người; một số có khiếu văn chương, nhưng rồi chẳng viết lách gì cả, và rốt cuộc chỉ còn một mình nữ sĩ Mộng Tuyết, sau thành bạn văn và bạn trăm năm của ông, là không phụ công lao của ông. Bà viết ít hơn ông, nhưng văn thơ đều có giọng như ông, cũng trang trọng, du dương, tô chuốt, có phần đa cảm hơn và khi miêu tả cảnh vật, như một khóm cây, một con ong, một cành hoa… nhận xét có phần sắc bén hơn ông. Ai đọc văn thơ của bà cũng nhận thấy ngay rằng bà chịu ảnh hưởng của ông rất đậm; mà văn thơ của hai ông bà có một địa vị riêng biệt ở Nam, có thể nói là thuộc về một phái riêng, phái Hà Tiên.
Phái này chỉ còn vài ba nhà nữa (như Trúc Hà, có họ hàng với Đông Hồ, cũng quê ở Hà Tiên, hơi có tiếng tăm, mất trước 1945, và ông Trọng Toàn), nhưng sự nghiệp không kém gì phái Chiêu Anh các.
Không kể rất nhiều bài đăng rải rác trên các tạp chí, hiện nay chưa in thành sách, Đông Hồ đã lưu lại cho chúng ta mười lăm tác phẩm, trong số đó có sáu bảy tập thơ.
Nữ sĩ Mông Tuyết cũng đăng lác đác ít bài thơ, hồi kí, đã xuất bản được một lịch sử tiểu thuyết: Nàng Ái cơ trong chậu úp, một tập tùy bút Dưới mái trăng non và có một tập văn cảo: Hà tiên tạp thuyết. Bà vẫn còn sáng tác và chắc còn cống hiến cho quốc dân vài tập nữa.
Đã có người nhận định về phần mà người ta gọi là “văn chương thuấn túy”, tức thơ, tùy bút… trong sự nghiệp của Đông Hồ; ở đây tôi chỉ xin giới thiệu những trứ tác của hai ông bà liên quan đến Hà tiên, để đọc giả thấy rõ hai ông bà đã đền đáp cho nơi chôn nhau cắt rún được những gì. Phần đó là phần hai ông bà quan tâm tới suốt đời mà cũng rất quan trọng, nhưng từ trước tới nay ít ai để ý tới.
Ở trên tôi đã dẫn một đoạn Đông Hồ tả Hà Tiên, và độc giả đã thấy lòng yêu quê hương của ông ra sao, ông cho Hà Tiên gồm đủ các thắng cảnh trong nước, không khác gì một Việt Nam thu nhỏ lại cho thêm phần xinh xinh mà để thưởng ngoạn.
Ngay từ khi mới nhập tịch làng văn, Đông Hồ đã giới thiệu quê hương với độc giả Nam Phong:
– Năm 1926 ông viết thiên Hà tiên Mạc thị sử (Nam Phong số 107) theo một bản Nôm của Trần Đình Quang hồi đầu thế kĩ.
Ba năm sau ông can đảm nhận rằng vì “sở học còn kém mà không tìm được bản chánh Gia phả họ Mạc”, nên thiên đó “còn khiếm khuyết, sai suyển rất nhiều, không thể để lầm cho người sau được”, ông viết lại. Nam Phong số 143 (năm 1929) đăng lại.
Lần này ông dùng bản Hán văn Mạc thị gia phả của Vũ thế Dinh, tự Thân Di, viết năm 1818. Tài liệu này tới nay vẫn được coi là tài liệu chính, đầy đủ hơn cả, tuy nhiên có nhiều chỗ cần phải xét lại, chia ra chương tiết, sau khi “tham khảo thêm các sách Nam sử và ngoại truyện”, tăng bổ thêm những chổ thiếu sót, cải chính những chỗ sai lầm.
Năm 1948 ông sửa chữa, cho in lại trong cuốn Danh nhân nước nhà của Đào Văn Hội.
Sau khi lên Sài Gòn rồi, ông kiếm thêm được nhiều tài liệu khác trong các bộ sử Việt, như bộ Đại Nam liệt truyện tiền biên, Un Chinois des mers du Sud, le fondateur de Hà tiên, Journal asiatique 1952 của Gaspardone, bản dịch và chú thích rất kĩ lưỡng cuốn Mạc thị gia phả kể trên, của Trần Kinh Hòa, Văn hóa Á châu số 7 tháng 10 năm 1958, ông thấy cần sửa lại lần nữa tập Hà tiên Mạc thị sử, nhưng chưa kịp làm thì đã qui tiên. Ông thực là kiên nhẫn và thận trọng. Mặc dù chưa sửa lại, tập đó đến nay vẫn tạm dùng được.
– Năm 1927, nhân dịp đi chấm thi ở Phú quốc, ông được thăm gần hết cảnh đẹp và di tích trên đảo, về viết một thiên du kí rất đầy đủ, đăng trong Nam Phong số 124 (1927), nhan đề là Thăm đảo Phú quốc. Ông nhận xét, ghi chép rất tỉ mỉ, mà văn du kí của ông tươi đẹp, nên ngày nay đọc lại còn thấy thú.
– Trong khoảng mấy năm sau, ông cho đăng trên Nam Phong nhiều thơ văn tả cảnh Hà tiên như Bơi thuyền chơi Đông hồ, Đông hồ cảnh sớm, Lên chơi núi Đại Tô châu, Chơi Tô châu, Cảnh trăng trên Đông Hồ…, đáng để ý hơn cả là:
Bài kí Chơi Châu Nham (Nam Phong số 154, năm 1930). Núi Châu nham tức núi Đá dựng cách chợ Hà tiên sáu, bảy cây số, cảnh hoang tịch mà đẹp hơn Thạch Động.
Và bài phú Đông Hồ rất nổi tiếng (N.P số 145 năm 1929 – sau sửa lại vài chỗ, đăng lại trong số 158 năm 1931).
Xem thêm: Tìm hiểu quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt xuống phía Nam
– Non hai chục năm sau, hai ông bà cho ra chung một tập nhan đề là Hà Tiên thập cảnh và đường vào Hà Tiên (Bốn phương – 1960). Tập này mõng, nhỏ chỉ bằng bàn tay, giúp độc giả biết rõ ràng về mười thắng cảnh Hà tiên. Về mỗi cảnh Đông Hồ dẫn một bài thơ Nôm, thất ngôn Đường luật của Mạc Thiên Tích rồi giảng giải, tả cảnh, kể tích xưa cho ta hiểu rõ thêm. Cuối tập có mươi trang tả bốn năm con đường đưa vào Hà Tiên. Tác phẩm có ích cho khách du lịch.
Trong mấy chục năm đó, Đông Hồ vẫn tiếp tục khảo cứu thêm về Hà Tiên, thu thập tất cả sách báo Việt, Hán, Pháp viết về Hà tiên được trên mười tập… Tôi đã thấy ông ghi chú kĩ lưỡng từng tài liệu một, gom lại thành một bó lớn, một phần được dùng trong cuốn Văn học Hà Tiên (Quình Lâm – 1970). Cuốn này dày trên ba trăm trang khổ lớn, có nhiều hình ảnh, gồm những bài giảng của ông ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Tôi nhận thấy công trình khảo cứu công phu, cách trình bày sáng sủa – giọng ông ở đây là giọng một giáo sư kiêm một nghệ sĩ. Ông rất thận trọng trong phần chú giải, nhất là trong những bài dịch thơ chữ Hán của Mạc Thiên Tích. Ông dịch sát mà giữ đúng cả thể lẫn vần trong nguyên tác, như bài Lộc trĩ thôn cư nguyên tác là thất ngôn Đường luật và dùng những vần tinh, thinh, thanh, linh, đình thì ông dịch ra thất ngôn Đường luật và dùng những vần mình, tranh, xanh, thanh, thinh.
Ông đã trình bày cặn kẽ chẳng riêng mười bài thơ nôm, mà trọn tập ngâm khúc Nôm và mười bài thơ Hán của Mạc Thiên Tích về mười cảnh Hà tiên. Về phần giới thiệu nhóm Chiêu Anh các, tiểu sử Mạc Thiên Tích, tài liệu cũng dồi dào, sau này khó có ai viết hơn ông được.
Đó là công của Đông Hồ với Hà Tiên. Sự đóng góp của Mộng Tuyết cũng rất đặc biệt. Bà chỉ mới có một tập truyện Nàng Ái cơ trong chậu úp (Bốn phương – 1961) và vài bài ngắn, chép hồi kí về Hà tiên trong tập Dưới mái trăng non (Mặc Lâm -1969) nhưng nội cuốn Nàng Ái cơ cũng đáng được chú ý rồi.
Mộng Tuyết bổ túc công việc của Đông Hồ. Đông Hồ cho ta biết lịch sử Hà tiên, đời sống và sự nghiệp các nhân vật Hà tiên, Mộng Tuyết cho ta thở cái không khí cổ của Hà tiên, sống với các nhân vật Hà tiên.
Truyện có thực, còn lưu lại di tích, tức chùa Phù Dung ở Hà Tiên mà Đại nam nhất thống chí chép đúng, là chùa Phù Cừ, người sau không hiểu nghĩa đổi thành Phù Dung.
Nhân vật chính, Dì Tự, một ái cơ của Mạc Thiên Tích, đã đẹp lại hay chữ, khiến bà chính thất họ Nguyễn ghen tuông mà lập mưu hãm hại, nhốt vào một cái chậu úp cho ngộp mà chết, may được Thiên Tích ngẫu nhiên cứu sống, rồi chán chường thế sự bà xin phép chồng đi tu, Thiên Tích cất cho bà ngôi chùa Phù Cừ đó để bà lánh đời.
Truyện chỉ có vậy, tác giả đã tưởng tượng thêm để viết thành một lịch sử tiểu thuyết dài non hai trăm trang làm sống lại một thịnh thời ở Hà Tiên với những hội hoa đăng, hội thơ, cảnh duyệt binh, cảnh tết Đoan ngọ… Tuy là tưởng tượng nhưng vẫn dựa vào sử, theo sát tài liệu lịch sử, giữ đúng niên đại trong sử. Tác giả đã khảo cứu công phu, dựng truyện chặt chẽ, mà văn thì đẽo gọt, đối với một tiểu thuyết, có lẽ đẽo gọt quá theo quan niệm hiện thời. Từ đầu thế kĩ đến nay, ít cuốn trong loại đó có thể so sánh được: tiểu thuyết của Lan Khai chỉ là truyện tình mang tên “lịch sử” còn tiểu thuyết của Nguyễn Triệu Luật ngoài cuốn Bốn con yêu và ba ông đồ chỉ là lịch sử kí sự mượn cái tên “tiểu thuyết”. Đúng tên lịch sử kí sự tiểu thuyết chỉ có Nàng Ái cơ trong chậu úp. Tiếc thay, tác phẩm được ít người hoan nghênh có lẽ chỉ vì xuất hiện không đúng lúc.
Tuy là của Mộng Tuyết nhưng công của Đông Hồ cũng đáng kể, không phải trong việc đề tựa và trình bày (có mấy bức tranh của ông) mà cả trong việc thu thập tài liệu, xây dựng cốt truyện nữa.
Vậy ông đã trả ơn quê hương một cách xứng đáng. Hiện nay chúng ta biết được chút gì về Hà Tiên hầu hết là nhờ ông cả.
Thật cũng lạ! Họ Mạc và họ Lâm đều gốc gác ở Hoa Nam: Mạc ở Quảng đông, Lâm ở Phúc kiến, cùng qua Nam Việt một thời, cùng yêu ngay quê hương thứ hai của mình, rồi coi quê hương đó là quê hương thứ nhất, cũng tận tâm phục vụ cho tiếng mẹ đẻ; họ Mạc đến đời thứ bảy chỉ có hai đứa con gái, còn họ Lâm đến đời thứ tám cũng chỉ có hai người con gái (Đông Hồ là con trai duy nhất đời thứ bảy, sanh hai con trai đều không nuôi được).
Hiện nay ngoài Mộng Tuyết ra, còn có nhà văn, nhà thơ nào gốc gác ở Hà tiên nữa không? Và Hà tiên bao giờ mới lại có được một họ làm rạng danh Hà Tiên như họ Lâm? Nếu có thì thời đại đã thay đổi, Hà tiên sẽ không còn là nơi hẻo lánh nữa, văn học Việt Nam đã thống nhất thì sự nghiệp của người sau tất khác của người trước. Và chúng ta có thể nói rằng lịch sử văn học Hà Tiên sẽ vĩnh viễn gắn liền với với hai họ Mạc, Lâm. Họ Mạc làm cho Hà Tiên thành “văn hiến quốc”, họ Mạc mở đường, họ Lâm nối nghiệp: người sau sẽ chuyển qua một hướng khác chứ không tiếp tục nữa.
Chú thích:
1. Quình Lâm xuất bản – 1970
2. Chính tên là Tông, tự Thiên Tứ. Chữ Tứ này bộ bối, có nghĩa là cho; sau chúa Nguyễn Phúc Chu (1725-38) tứ danh cho, mới đổi bộ bối ra bộ kim, thành chữ Tích cũng có nghĩa là cho.
3. Theo Đông Hồ (Văn học Hà tiên – tr. 142), “căn cứ trên bia mộ dựng ở núi Bình sao (Hà tiên), hiện vẫn còn, khi Thiên Tích lập thạch cho mẹ, đề Thái phu nhân là họ Nguyễn, thì chúng ta có thể quyết được mẹ Thiên Tích là người Việt. Bởi người Tàu ít có người họ Nguyễn”. Theo Gia định thành thông chí (quyển II), ông Hàn Nguyên dẫn trong bài “Hà tiên, chìa khóa Nam tiến của dân tộc Việt Nam xuống đồng bằng sông Cửu Long”, tập san Sử Địa số 19-20, năm 1970, tr. 265, thì mẹ Mạc Thiên Tích là người Việt, tên là Bùi thị Lẫm, gốc ở Đồng môn, thuộc Biên hòa. Cũng trong bài ấy, ông Hàn Nguyên còn dẫn lời của Pierre Poivré, cũng nhận Thiên Tích là người lai. Chúng ta có thể tin lời trên mộ bia hơn lời trong Thông chí. Dù theo thuyết nào thì mẹ của Thiên Tích cũng là người Việt, cho nên Thiên Tích mới giỏi thơ nôm được.
4. Có 320 bài thì ta có thể đoán rằng Chiêu Anh các gồm 32 thi sĩ thôi (mỗi nhà làm 10 bài), kể cả Thiên Tích. Con số 36 cũng như con số 12, 72… không đáng tin lắm.
5. Hãn Nguyên – Bài đã dẫn. Tập san Sử Địa 19-20, tr. 270.
6. Theo Gaspardone – Hãn Nguyên trong bài kể trên. Hàn lâm viện đó là Chiêu Anh các.

Nguyễn Hiến Lê
Trích “Mười Câu Chuyện Văn Chương – Nguyễn Hiến Lê”





Không có nhận xét nào:

CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VÀ ĐỒNG MÔN TRƯỜNG HOÀNG DIỆU SÓC TRĂNG THAM QUAN, ỦNG HỘ HOANGDIEUTRUONGXUASAIGON.BLOGSPOT.COM. CHÚC THẦY CÔ VÀ ANH CHỊ EM NHIỀU SỨC KHỎE, THÀNH CÔNG TRONG CÔNG VIỆC.