SỰ HÌNH THÀNH ĐƯỜNG DÂY ĐIỆN BÁO ĐẦU TIÊNTRÊN VÙNG ĐẤT NAM KỲ
Điện báo là phương tiện truyền tải thông tin đầu tiên mà thực dân Pháp thực hiện trong bước đầu xâm lược Việt Nam. Điều này cũng dễ hiểu, ngay từ nửa đầu thập niên 1860, cuộc nổi dậy của người dân Nam Kỳ dưới sự lãnh đạo của các nghĩa sĩ Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Thiên hộ Võ Duy Dương ... đã làm cho đạo quân viễn chinh Pháp nhiều phen khốn đốn. Và thực tế cho thấy rằng chính điện báo đã góp phần không nhỏ trong việc người Pháp chống lại các cuộc khởi nghĩa trên.
Ngay sau khi vừa tấn công Sài Gòn năm 1859 và chưa chính thức đặt bộ máy cai trị tại đây thì các đô đốc Pháp đã nghĩ ngay đến việc thiết lập hệ thống điện báo để đảm bảo sự liên lạc thông suốt và nhanh chóng giữa các đơn vị quân viễn chinh với nhau. Ngày 18.3.1860, Đại tá hải quân Pháp Dariès được cử đến Sài Gòn, và không đầy một tháng sau, cụ thể là ngày 11.4.1860, ông ta thành lập tại thành phố này Phòng Bưu chính đầu tiên của người Pháp tại Đông Dương, được điều hành bởi viên chức hành thu thuế tại thành phố.
Không lâu sau, với tư cách Giám đốc Dân sự vụ, Dariès giao cho Chánh sở Điện báo Wattebled nhiệm vụ chỉ huy việc xây dựng các đường dây điện báo trong vùng. Kế hoạch ban đầu là thiết lập trước đường dây điện báo Sài Gòn-Biên Hòa dài 28 km, sau đó sẽ kéo dài đến Bà Rịa và Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu).
Theo Lemire, lúc bấy giờ là một viên chức ngành điện báo, sau là Công sứ Pháp ở Đông Dương, đường dây điện báo Sài Gòn - Biên Hòa được người Pháp khánh thành ngày 27.3.1862. Công việc thiết kế và thi công gặp rất nhiều khó khăn do điều kiện vật chất, kỹ thuật vào thời đó. Đường bộ bị chia cách bởi một con kênh cách Sài Gòn 8 km và một nhánh sông ở Biên Hòa. Để giải quyết vấn đề này, người Pháp phải khổ công đặt đường dây cáp ngầm ở những chỗ cắt.
18 giờ 30 phút ngày hôm ấy, hai bờ sông Đồng Nai được nối liền, bức điện báo đầu tiên trong lịch sử viễn thông Việt Nam gửi đi từ Biên Hòa nhận được tại Sài Gòn sau 2 phút (1)
Đường dây điện báo thứ hai dài 7 km, nối liền Sài Gòn-Chợ Lớn, khánh thành ngày 17.4.1862. Lúc bấy giờ, việc xây dựng các cơ sở hành chánh đã không được thực hiện một cách suôn sẻ, và văn phòng điện báo cũng chịu chung tình trạng này. Theo Jean Bouchot, tác giả quyển “La naissance et les premières années de Saigon” (Sự ra đời và những năm đầu tiên của thành phố Sài Gòn – Saigon 1927), văn phòng điện báo lúc bấy giờ chỉ là hai ngôi nhà thấp lợp ngói phẳng nằm giữa một khu vườn được bao quanh bằng một hàng rào tre trúc. Người ta dựng lên ở đó hai cây sào mang tấm biển với một chữ duy nhất “Télégraphe” (Điện báo). Quãng trường nơi xây dựng trụ sở điện báo đầu tiên thời đó được gọi là “Quãng trường Đồng hồ” (Place de l’Horloge) nằm ở góc đường Catinat và De la Grandière (nay là đường Đồng Khởi và đường Lý Tự Trọng)
Năm 1870, văn phòng điện báo vẫn còn nằm tại Quãng trường Đồng hồ, trên con đường De la Grandière, cùng với Nha Giám đốc Nội vụ (Direction de l’Intérieur), mà báo chí thời đó gọi là “Dinh Thượng thơ”. Không lâu sau, người Pháp phá hủy nhiều nhà cửa nằm trong khu vực này, lấy đất bổ sung cho công trình san lấp con kênh lớn, biến nơi đó thành đại lộ Charner (nay là đường Nguyễn Huệ - TPHCM). Cuộc sống của nhân viên bưu chính và điện báo lúc bấy giờ rất khó khăn, đòi hỏi ở họ một nỗ lực to lớn để tiếp tục thực hiện các dự án đã vạch ra.
Đầu tháng 6.1862, một sự kiện quan trọng diễn ra tại Sài Gòn; đó là lễ ký kết hòa ước Nhâm Tuất ngày 5.6.1862. Sứ bộ Việt Nam đến Sài Gòn, ngoài các vị Chánh, Phó sứ (Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp), còn có ông Phạm Văn Trung, quan lại phụ trách về bưu chính của triều đình Huế. Theo lời Lemire kể lại, nhân dịp này, một nhóm người trong đó có ông Trung, được mời đến thăm trụ sở cơ quan điện báo và người ta đã biểu diễn cho họ xem việc liên lạc giữa Sài Gòn với Biên Hòa và Chợ Lớn. Kết quả làm cho phái đoàn Việt Nam rất ngạc nhiên, có người không tin, nghĩ là họ bị lừa, đã nhìn thử dưới gầm bàn xem có ai ngồi núp ở đó không, nhưng họ chỉ gặp các hộc tủ trống rỗng…(2)
Tháng 4.1866, người Pháp mở cuộc hành quân qui mô vào Đồng Tháp Mười và điện báo trở thành công cụ đắc lực giúp Pháp đánh tan lực lượng nghĩa quân, Thiên hộ Dương phải bỏ khu vực này, chạy về phía Bắc và chết trong hành trình trên biển. Tính ra chỉ trong 5 ngày 5 đêm, tại Đồng Tháp Mười, các đơn vị quân viễn chinh Pháp đã trao đổi với nhau 1.153 bức điện, mỗi bức không dưới 500 từ!
Chỉ trong vòng 10 năm (1862-1872), thực dân Pháp tại miền Nam đã thiết lập 6.600 km đường dây cáp điện báo, thêm 13 đường dưới mặt nước dài tổng cộng 13.225 km. Năm 1881 cũng là năm chính quyền thuộc địa mở cuộc thi tuyển thư ký điện báo Đông dương đầu tiên, củng cố hoạt động của ngành này
(1) L. Malleret - Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises – 1936
(2) Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH) số 1 năm 1944 - trang 11
Lê Nguyễn
10.11.2025
* Xin cảm ơn báo Thanh Niên đã đồng hành cùng tác giả
Sưu tầm
Vào năm 1926, khi Berlin đang vật lộn với mật độ giao thông tăng cao, một giải pháp đã ra đời, táo bạo đến mức khiến mọi người phải ngước nhìn: xe buýt ba tầng!
Sưu tầm
TÀU BỆNH VIỆN HELGOLAND MỘT THỜI ĐỂ NHỚ…
Lê Tấn Tồn
Những ngày cuối tháng 9 năm 1966 người Sàigòn rất ngạc nhiên khi thấy một con tàu uy nghi đề tên Helgoland đang neo đậu cặp Bến Chương Dương, ngay trước mặt khách sạn lừng danh Majestic. Nếu bề ngoài sang trọng của con tàu, và nơi nó neo đậu làm cho nhiều người cho đó là một tàu du lịch từ phương tây ghé thăm Hòn Ngọc Viễn Đông, thì người ta lại thắc mắc khi thấy trong đám dân bản xứ lên tàu lại có khá nhiều người ăn mặc xềnh xoàng với vẻ yếu đuối, suy nhược như là những bệnh nhân. Nhìn lên tàu, có thể thấy ngay những lá cờ Hồng thập tự thật lớn được sơn bên hông tàu và những người gọn gàng trong đồng phục trắng. Thì ra đó là một bệnh viện nổi, thường được biết đến dưới tên là “Tàu bệnh viện Helgoland”.
Đối với tôi, một ông già “ thất thập ” thì tàu bệnh viện Helgoland tình cờ trở lại trong ký ức khi mấy hôm ngồi viết hồi ức về một người chị quá cố, mà trong gần hai mươi năm vương mang căn bệnh, chị tôi đã từng là bệnh nhân được Helgoland điều trị một thời gian dài ngay tại Sài gòn. Trong đầu lại tự nhiên hiện lên những câu hỏi mà khi xưa tôi chẳng mấy quan tâm. Tại sao con tàu này xuất hiện? Nó đã làm những gì? Thôi thì sẵn dịp bất đắc dĩ phải làm ẩn sĩ vì dịch bệnh, lục lọi tìm tòi rồi ghi lại đôi điều cóp nhặt cũng là cách tiêu khiển…vừa an toàn vừa tiết kiệm vậy.
Bài “Die MS Helgoland: Mission Menschichkeit ” đăng trên Website của hội Hồng Thập Tự Đức cho chúng ta khá nhiều hiểu biết về con tàu này. Bên cạnh đó, còn có thêm những thông tin thú vị về nó trong Trang Wikipedia của Đức: Helgoland (Schiff, 1963). Ở trong nước, năm 2018 chuyện về tàu Helgoland cũng từng được đăng trên Lao Động Online (LĐO) với bài “ Nhớ một con tàu ” trong đó có nội dung phỏng vấn vài người dân địa phương từng được tàu Helgoland cứu chữa rất cảm động.
Qua những nguồn trên, có thể nói chuyện khai sanh con tàu bắt đầu từ sau chuyến đi của Thủ tướng Đức đương thời là Ludwig Erhard thăm Washington cuối năm 1965. Tại cuộc gặp, Tổng thống Hoa kỳ Johnson đã đề nghị Đức tham gia chiến tranh VN. Dân chúng Đức khi đó quyết liệt phản đối việc tham chiến nên chính phủ Đức phải tìm giải pháp thỏa hiệp là không tham gia quân sự, chỉ trợ giúp nhân đạo. Từ đó, được sự ủy thác của chính phủ, Hội Hồng Thập Tự Đức đã cùng các tổ chức thiện nguyện, trong đó có tổ chức Malteser Hilfsdienst đã khẩn cấp tìm một con tàu, hoán cải thành loại tàu y tế, để chửa trị cho nạn nhân của cuộc chiến, ngay tại VN.
Thế là một con tàu du lịch hạng sang chuyên phục vụ hành trình từ cảng Cuxhaven ra đảo Helgoland (1 hòn đảo nhỏ cùng nằm ở phía bắc nước Đức) đã được chọn mua để hoán cải thành bệnh viện. Đây là lý do tại sao tàu có tên Helgoland. Con tàu tãi trọng xấp xỉ 3.000 tấn này dài đến 192m, vừa mới hạ thủy năm 1963, khi đó hãy còn mới cáo. Việc tu sửa con tàu chỉ mất 6 tháng là hoàn tất để trở thành một bệnh viện với 2 phòng mỗ, 4 chuyên khoa và 150 giường bệnh. Ngoài ra, tàu còn có thể đưa 50 giường lên bờ để lập phòng khám. Hội Hồng thập tự Đức được chính phủ CHLB Đức giao trách nhiệm trọn gói điều hành con tàu cũng như tuyển các nhân viên y tế.
Ngày 16/09/1966 tàu Helgoland bắt đầu vào sông Sài Gòn. Một màn chào đón trên sông Sài Gòn có lẽ đã làm cho những người trên tàu không thể nào quên: “ Những chiếc trực thăng chiến đấu cũng như tàu cao tốc theo hộ tống tàu Helgoland vào cập bến đã bắn vào tất cả những bó cây trôi trên sông, bởi họ cho rằng đó là nơi thường được đối phương ngụy trang để gài mìn ”. Con tàu sau đó bỏ neo tại một nơi sầm uất là Quai de Belgique (bến Chương Dương) ngay trước khách sạn Majestic. Nhóm đầu tiên đến VN gồm 7 bác sĩ, 20 y tá, 8 điều dưỡng cùng 1 số nhân viên kỹ thuật và điều hành tàu. Một thời gian sau, 1 chuyên gia vật lý trị liệu cũng tham gia nhóm. Họ ký hợp đồng làm việc 6 tháng, 1 số sau đó gia hạn thành 1 năm. Hầu như tất cả họ đều là những người trẻ tuổi và quyết định dấn thân cho nhiệm vụ khó khăn này.
Một năm sau khi đến Sài Gòn thì con tàu nhổ neo đi Đà nẵng và ở đó cho đến năm 1972. Thành phố Đà Nẵng khi đó có 350.000 dân, được xem là một trong những căn cứ quan trọng nhất của người Mỹ, nhưng chỉ có tất cả 500 giường bệnh. Ở đây dân chúng xem tàu Helgoland như một phi thuyền đến từ hành tinh khác. “ Tàu lúc nào cũng sạch boong, có điều hòa nhiệt độ, thiết bị tối tân cùng thuốc men tốt nhất ”, Dietrich Blos, người nhiều lần đại diện Ban điều hành Hồng thập tự đến kiểm tra tàu, đã kể.
Theo Bác sĩ trưởng của tàu Helgoland, Giáo sư Heimfried-Christoph Nonnemann, thì với vai trò một bệnh viện của Hội HỒNG THẬP TỰ họat động nhân đạo trong thời chiến, tàu Helgoland được công ước Geneve bảo hộ, nó được coi như “vùng đất phi chiến sự hoặc trung lập nghiêm ngặt”. Nhờ “đặc quyền” này, Helgoland tiếp nhận tất cả các bệnh nhân được chuyển đến bằng nhiều phương tiện, không phân biệt tuổi tác, gốc tích xuất thân. Tuy nhiên, nguyên tắc của Helgoland là không nhận chửa trị cho binh lính của bất kỳ bên nào. Cũng theo ông thì các nhân viên y tế đã giúp đỡ tất cả mọi người dân mà không hề thắc mắc họ đến từ đâu. Đó là nguyên tắc chung của tàu Helgoland khi hoạt động tại VN, dù là Sài gòn hay Đà Nẵng. Vì vậy, sau khi về Đức, năm 1972 ông đã viết cuốn sách có tựa đề: “Chúng tôi không hỏi họ từ đâu đến”. Cuốn sách sau này được chuyển ngữ sang tiếng Việt.
Các nhân viên trên tàu thường xuyên phải chữa trị các vết thương mà thường chỉ có các bác sĩ quân y mới gặp, như những tường thực sống động sau đây của những người trong cuộc:
“Đây là một thằng nhóc bị nổ nát tay khi chơi lựu đạn. Kia là một cô bé bị mảnh bom cắt ngang bụng. Hay là những dân làng sau trận bom napal mà da của họ, theo lời BS Otto Jaeger 10 tiếng sau vẫn còn mùi như tàn lá. Hoặc là một thai phụ bị những mảnh bom ghim khắp người, được nối với máy trợ tim suốt 10 ngày và sinh con ngay bên cạnh đó. Người mẹ qua đời 2 ngày sau khi sinh con, nhưng đưa bé được cứu và được mọi người trên tàu gọi là “Mr. Helgoland”. Người ta đã tính ra có lúc tổng số bệnh nhân do bom, đạn, mìn nhiều thứ 2 trên tàu. Riêng trong khu vực phẫu thuật dành cho nam giới có khoảng 75% là những người bị thương do chiến tranh, còn bên phía nữ là hơn 50%.”
Vào những năm cuối thập niên sáu mươi, chiến tranh VN ngày càng trở thành đề tài được người dân Đức quan tâm. Tàu Helgoland do đó cũng trở thành chủ đề chính trị. Mặc cho tính nhân đạo của chương trình, ở nước Đức khi đó vẫn có ý kiến cho rằng đây chỉ là một quân cờ trong chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, khi kết thúc nhiệm vụ nhân đạo của tàu Helgoland, Hội Hồng Thập Tự Đức đã vô cùng hài lòng vì “Thực tế đã chứng minh việc một con tàu được dùng làm bệnh viện có nhiều ưu điểm. Trên hết là vào những đêm có khả năng bị pháo kích, tàu lại nhổ neo và được đưa đến nơi an toàn cho đến khi tình hình lắng dịu. Đó là điều mà một bệnh viện trên đất liền không thể làm được để duy trì năng lực phục vụ của con tàu và nhất là sự an toàn nhân mạng. Mặt khác, nên nhớ rằng điều căn bản của nhiệm vụ của tàu này là: bất cứ ai cũng sẽ được cứu chữa, bất kể bạn hay thù, giàu hay nghèo. Đây là 1 sự cứu rỗi cho đất nước đang bị chiến tranh và cả tham nhũng tàn phá. Tất cả dịch vụ trên tàu đều miễn phí.” Và Bác sĩ Johannes Haas, một trong những bác sĩ chính trên tàu nhớ lại: “Tàu Helgoland đã để lại 1 danh tiếng tuyệt vời! Khi chúng tôi từ Sing trở lại thì bên bờ sông ở Đà nẵng, người ta đã đốt những đống lửa để chào mừng” .
Sứ mệnh của tàu Helgoland kết thúc năm 1972 khi hội Hồng Thập Tự Đức cùng các tổ chức thiện nguyện phối hợp với chính phủ VN xây dựng và nâng cấp cho Đà Nẵng 1 bệnh viện hiện đại 1.000 giường. Con tàu trở về Đức, yên ả trở lại với công năng cũ, tiếp tục chở khách du lịch qua biển.
Tổng cộng con tàu đã ở VN hơn 5 năm, một trong những nhiệm vụ lớn nhất cũng như dài nhất trong lịch sữ hội Hồng Thập Tự Đức. Trong suốt thời gian này có tất cả 272 nhân viên y tế đã luân phiên làm việc tại đây cùng với khoảng 30 nhân viên điều hành tàu. Thêm vào đó là 70 người VN làm các nhiệm vụ như thông ngôn, giặt giũ, nấu nướng. Tổng cộng hơn 12.000 bệnh nhân đã được điều trị nội trú và hơn 11.000 ca mỗ được thực hiện.
(Sau khi hoàn tất sứ mạng ở VN trở về, tàu đổi chủ mấy lần, và cho đến 2006 thì được bán về Ecuador)
Lê Tấn Tồn
Giữa thế kỷ XV, khi thảo nguyên Mông Cổ chia cắt bởi nội chiến và những tàn dư của đế chế hùng mạnh một thời chỉ còn là tiếng vọng trong gió, một người phụ nữ đã bước lên ngai vàng và thay đổi vận mệnh dân tộc mình. Bà là Mandukhai Sechen Khatun – Mandukhai Thông Tuệ, sinh khoảng năm 1449, người được hậu thế tôn vinh là “Nữ hoàng của các thảo nguyên”.
Sau khi chồng bà, Khan Manduul, qua đời mà không để lại người kế vị, đất nước rơi vào hỗn loạn. Các bộ tộc Mông Cổ tranh giành quyền lực, lòng trung thành với hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn dần phai nhạt. Trong bối cảnh đó, Mandukhai không chấp nhận để đế quốc vĩ đại của tổ tiên chìm trong lãng quên. Bà tìm ra Batmunkh, đứa trẻ mang dòng máu của Genghis Khan, nhận làm con nuôi và lập cậu làm Đại Hãn Dayan Khan, rồi tự mình nắm quyền nhiếp chính. Từ đây, một chương sử mới bắt đầu – nơi một người phụ nữ không chỉ cai trị mà còn chiến đấu vì linh hồn của Mông Cổ.
Mandukhai khoác áo giáp, cưỡi ngựa xông pha cùng binh sĩ trên chiến trường, đối đầu với những kẻ thù hùng mạnh và chinh phục các bộ lạc phản loạn. Bà không cai trị từ ngai vàng bằng sắc lệnh, mà từ lưng ngựa giữa gió thảo nguyên, nơi bà chỉ huy quân đội như một vị tướng thực thụ. Sử sách kể rằng khi bà mang thai, vẫn cưỡi ngựa ra trận, để con mình sinh ra trong tiếng vó ngựa và tiếng gươm va chạm – biểu tượng cho tinh thần bất khuất của người Mông Cổ.
Bằng tài năng và lòng kiên định, Mandukhai đã tái thống nhất Đại Mông Cổ, khôi phục uy quyền của Đại Hãn, củng cố trật tự, đưa các bộ tộc trở lại dưới cùng một ngọn cờ. Bà hồi sinh niềm tự hào dân tộc, khơi dậy hào khí của Thành Cát Tư Hãn trong trái tim người dân. Dưới triều đại của bà và Dayan Khan, thảo nguyên tìm lại được sự ổn định và sức mạnh đã mất suốt nhiều thế kỷ.
Khi Mandukhai qua đời năm 1510, Mông Cổ để tang như tiễn đưa một vị anh hùng. Tên bà được lưu truyền qua nhiều thế hệ – một nữ chiến binh, một nhà lãnh đạo thông tuệ, người đã kết hợp trí tuệ và dũng cảm để bảo vệ bản sắc dân tộc giữa những biến động khốc liệt của lịch sử.
Tấm ảnh năm 1953 mang lại cảm giác như một thước phim Ý – Pháp lãng mạn quay bằng máy 8mm: một người phụ nữ ăn vận thanh lịch đứng bên cạnh Funiculaire de Montmartre, phía sau là mái vòm Sacré-Cœur trắng muốt vươn lên giữa những tán cây. Chỉ vài chi tiết thôi cũng đủ thấy người Paris thời ấy quan niệm cái đẹp là một phần của đời sống thường ngày, dù chỉ là chuyến tàu kéo lên ngọn đồi.
Funiculaire de Montmartre là một trong những biểu tượng giao thông lạ lùng và duyên dáng nhất nước Pháp. Tuyến tàu khánh thành năm 1900, dùng hệ thống đối trọng nước kéo hai cabin lên xuống con dốc quá đứng để người dân khỏi phải leo hơn 200 bậc thang. Đến thập niên 1930, công nghệ điện thay thế, cửa kính rộng giúp hành khách ngắm toàn cảnh Paris khi cabin từ từ men theo sườn đồi. Với người dân bản địa, đây là phương tiện tiện lợi; với du khách, nó giống như lời mời bước vào Montmartre – nơi có xưởng vẽ nhỏ, họa sĩ bán tranh, cà phê ngoài trời và tiếng kéo đàn vọng ra từ cửa sổ tầng gác.
Trong những năm 1950, Montmartre vẫn còn vẻ mộc mạc của một làng nghệ sĩ nằm thu mình giữa thủ đô. Tàu lên đến đỉnh là quảng trường Tertre, nơi các họa sĩ dựng giá vẽ, những “ông đồng hồ vàng” ngồi đọc báo, còn Sacré-Cœur thì lấp lánh dưới nắng chiều. Cảm giác bước xuống cabin giống như bước vào một tấm bưu thiếp sống, nơi từng phiến đá lát đường đều có câu chuyện của riêng nó.
Ngày nay, Funiculaire de Montmartre hiện đại hơn, vận hành êm và nhanh, nhưng cảm xúc dành cho nó vẫn không thay đổi. Chỉ 108 giây ngắn ngủi giữa chân đồi và đỉnh Montmartre, ta như đi xuyên qua hơn một thế kỷ kỷ niệm của Paris – thành phố biết biến một chuyến đi ngắn thành khoảnh khắc đáng nhớ.
Bài viết của Pane e Vino - 3 Nguyễn Khắc Cần
Vào đầu thập niên 1920, giữa cái lạnh của Toronto, trong một phòng thí nghiệm nhỏ hẹp, một nhóm nhà khoa học trẻ đã làm nên kỳ tích thay đổi lịch sử y học: họ phát hiện ra insulin, loại hormone cứu sống hàng triệu người mắc tiểu đường trên toàn thế giới. Người dẫn đầu là Frederick Banting, bác sĩ phẫu thuật mới ra trường, mang trong mình một ý tưởng táo bạo về việc tách chất chống tiểu đường từ tuyến tụy. Ông tìm đến Đại học Toronto, thuyết phục giáo sư J.J.R. Macleod cho phép thực hiện nghiên cứu. Macleod, dù hoài nghi, vẫn cho Banting mượn một phòng lab cũ, vài con chó và sự hỗ trợ của sinh viên y khoa Charles Best – người sau này trở thành cộng sự thân thiết nhất của ông.
Mùa hè năm 1921, Banting và Best làm việc không ngơi nghỉ, trong tiếng leng keng của ống nghiệm và ánh sáng vàng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn dầu. Sau nhiều lần thất bại, họ chiết xuất được một chất lỏng thô mà họ gọi là isletin. Khi tiêm vào những con chó mắc tiểu đường, kết quả thật phi thường: lượng đường trong máu giảm rõ rệt, chúng sống lại như thể được ban cho một cơ hội mới. Nhận thấy tầm vóc của phát hiện, Macleod mời nhà hóa sinh James Collip đến để tinh chế dung dịch, khiến nó đủ tinh khiết và an toàn cho người.
Ngày 11 tháng 1 năm 1922, trong một bệnh viện ở Toronto, cậu bé Leonard Thompson, 14 tuổi, đang hôn mê vì tiểu đường, được tiêm thử nghiệm mũi insulin đầu tiên. Liều đầu tiên chưa thành công, gây phản ứng nhẹ, nhưng sau khi Collip tinh lọc thêm, liều thứ hai đã giúp cậu tỉnh lại. Từ khoảnh khắc ấy, căn bệnh từng được xem là bản án tử hình đã có hy vọng sống.
Một năm sau, năm 1923, Banting và Macleod nhận Giải Nobel Y học, nhưng họ không xem chiến thắng này là của riêng mình. Banting chia phần thưởng cho Best, còn Macleod chia cho Collip, vì họ biết rằng sự vĩ đại của phát minh nằm ở tinh thần hợp tác và lòng nhân ái.
Câu chuyện về Banting và đồng đội là minh chứng cho niềm tin rằng tri thức chỉ thực sự có ý nghĩa khi được dùng để cứu người. Từ phòng thí nghiệm giản dị của Đại học Toronto, insulin đã lan tỏa khắp thế giới, đem lại sự sống và hy vọng cho hàng triệu bệnh nhân, trở thành biểu tượng của khoa học phục vụ con người.
Mùa hè năm 1921, Banting và Best làm việc không ngơi nghỉ, trong tiếng leng keng của ống nghiệm và ánh sáng vàng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn dầu. Sau nhiều lần thất bại, họ chiết xuất được một chất lỏng thô mà họ gọi là isletin. Khi tiêm vào những con chó mắc tiểu đường, kết quả thật phi thường: lượng đường trong máu giảm rõ rệt, chúng sống lại như thể được ban cho một cơ hội mới. Nhận thấy tầm vóc của phát hiện, Macleod mời nhà hóa sinh James Collip đến để tinh chế dung dịch, khiến nó đủ tinh khiết và an toàn cho người.
Ngày 11 tháng 1 năm 1922, trong một bệnh viện ở Toronto, cậu bé Leonard Thompson, 14 tuổi, đang hôn mê vì tiểu đường, được tiêm thử nghiệm mũi insulin đầu tiên. Liều đầu tiên chưa thành công, gây phản ứng nhẹ, nhưng sau khi Collip tinh lọc thêm, liều thứ hai đã giúp cậu tỉnh lại. Từ khoảnh khắc ấy, căn bệnh từng được xem là bản án tử hình đã có hy vọng sống.
Một năm sau, năm 1923, Banting và Macleod nhận Giải Nobel Y học, nhưng họ không xem chiến thắng này là của riêng mình. Banting chia phần thưởng cho Best, còn Macleod chia cho Collip, vì họ biết rằng sự vĩ đại của phát minh nằm ở tinh thần hợp tác và lòng nhân ái.
Câu chuyện về Banting và đồng đội là minh chứng cho niềm tin rằng tri thức chỉ thực sự có ý nghĩa khi được dùng để cứu người. Từ phòng thí nghiệm giản dị của Đại học Toronto, insulin đã lan tỏa khắp thế giới, đem lại sự sống và hy vọng cho hàng triệu bệnh nhân, trở thành biểu tượng của khoa học phục vụ con người.
Sưu tầm








Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét